Thảo Luận Kết Quả Hồi Quy Gmm Mô Hình Tác Động Mức Độ Chấp Nhận Rủi Ro Đến Tính Ổn Định Tài Chính.

4.5.3.3. Thảo luận kết quả hồi quy GMM mô hình tác động mức độ chấp nhận rủi ro đến tính ổn định tài chính.

Trước khi đi vào phần nhận xét kết quả hồi quy, tác giả tóm tắt lại kết quả hồi quy và kiểm định GMM của bảng 4.14 thành bảng 4.17 như sau:

Bảng 4.17 Bảng tóm tắt kết quả GMM tác động của mức độ chấp nhận rủi ro đến tính ổn định tài chính.

Biến phụ thuộc CAR

Ký hiệu

Tên biến

Hệ số GMM bảng 4.14

PROV

Mức độ chấp nhận rủi ro

-25.9417**

ROA

Tỷ suất sinh lợi

3.857**

DEFAULT

Tỷ lệ nợ xấu

8.508**

O_GAP

Khe hở sản lượng

-0.572**

C_GAP

Khe hở tín dụng

-0.0023***

LIQUID

Tỷ lệ thanh khoản

0.519*

NLTA

Hệ số rủi ro

0.0264

DEPTA

Tỷ lệ tiền gửi

-0.0639***

Hansen Test (P-value)

0.506

Arellano-Bond AR (2) (P-value)

0.806

Số nhóm

30

***, **, * Tương ứng mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.

Tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua mức độ chấp nhận rủi ro - 19

Nguồn: phụ lục 14

Tương tự như đã nhận xét ở mục 4.5.3.1, kết quả kiểm định biến công cụ Hansen Test và Arellano-Bond Test đều lơn hơn mức tham chiều 5% Chấp nhận giả thuyết H0 (Biến công cụ là hiệu quả và không có hiện tượng tự tương quan bậc 2 trong mô hình). Hồi quy GMM thỏa mãn kiểm định, do đó kết quả hồi quy ở bảng

4.14 là kết quả cuối cùng và đáng tin cậy được sử dụng làm bằng chứng phân tích tác động mức độ chấp nhận rủi ro đến tính ổn định tài chính. Phần thảo luận được viết chi tiết bên dưới:

Mức độ chấp nhận rủi ro (dự phòng cho vay - PROV) và tính ổn định tài chính (hệsố an toàn vốn - CAR):

Kết quả hồi quy GMM bảng 4.14 cho thấy dự phòng cho vay có tác động tiêu cực đến hệ số an toàn vốn. Hệ số của dự phòng cho vay thu được trong phương trình hồi quy GMM bằng -25.9417 có ý nghĩa thống kê tại 5%. Các kết quả hồi quy với FEM và REM ở bảng 4.11 lần lượt bằng -1.650 và -2.515 với mức ý nghĩa tại 1%. Các

kết quả này cung cấp bằng chứng thống kê đáng tin cậy khi tỷ lệ dự phòng tăng hàm ý về nhận thức rủi ro của các ngân hàng về các khoản nợ xấu tăng lên, điều này có thể bắt nguồn từ sự gia tăng trong các nhóm nợ xấu dẫn tới làm tăng tỷ trọng tài sản có rủi ro của ngân hàng, kết quả là sự sụt giảm trong hệ số an toàn vốn nếu như các ngân hàng không tìm các biện pháp tăng vốn hoặc mức tăng chưa đủ. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Büyükşalvarci và Abdioğlu (2011) tại các ngân hàng ở Thổ Nhĩ Kỳ cho kết quả về mối quan hệ ngược chiều giữa dự phòng cho vay và hệ số an toàn vốn.

Nhà quản lý xem hệ số an toàn vốn như một công cụ giám sát và khuyến khích ngân hàng thận trong hơn đối với chất lượng tài sản (hàm ý quan hệ ngược chiều). Tuy nhiên trong thực tế các ngân hàng có thể không đánh đổi giữa tính ổn định tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro, điều này xảy ra khi nhà quản lý điều chỉnh vốn để đáp ứng tiêu chí hệ số an toàn vốn của NHNN trong trường hợp dự phòng cho vay tăng. Mối quan hệ tích cực sẽ phản ánh nỗ lực tăng vốn của nhà quản lý để hấp thụ được các khoản lỗ dự kiến cũng như đáp ứng được yêu cầu hệ số an toàn vốn của NHNN, lúc đó tiêu chí hệ số an toàn vốn không thật sự phản ánh đúng mức an toàn trong hệ thống tín dụng, như nghiên cứu của De Moraes và cộng sự (2016) tại Brazil. Tuy nhiên, kết quả tại nghiên cứu này cho nhóm 30 ngân hàng Việt Nam từ 2007 đến 2019 giúp tác giả đưa ra một nhận định khác, đó là hệ số an toàn vốn đã thể hiện được sự đáng tin cậy của nó trong việc đánh giá tính ổn định của hệ thống ngân hàng thương mại, cụ thể tìm thấy bằng chứng cho sự đánh đổi giữa tính ổn định tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro. Khi dự phòng cho vay tăng sẽ kéo theo sự sụt giảm trong tỷ lệ an toàn vốn do sự tăng lên của tài sản có rủi ro, từ đó phản ảnh tình trạng kém ổn định của hoạt động tín dụng trong hệ thống ngân hàng thương mại. Kết quả này được Blose (2001), Hassan (1992) và Chol (2000) kết luận trong các nghiên cứu của mình. Tương tự, El-Ansary và Hafez (2015) nghiên cứu tại các ngân hàng thương mại ở Ai Cập tìm thấy tác động tiêu cực của tỷ lệ dự phòng cho vay đến tỷ lệ an toàn vốn. Kết quả đặt được giúp tác giả chấp nhận giả thuyết tìm thấy mối quan hệ giữa mức độ chấp nhận rủi ro và hệ số an toàn vốn.

Giả thuyết H3-1: Mức độ chấp nhận rủi ro tác động trái chiều đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Tỷ suất sinh lợi và tính ổn định tài chính

Kết quả nghiên cứu trong luận án này cho 30 NHTM Việt Nam cho thấy tỷ suất sinh lợi có tác động tích cực đến tỷ lệ an toàn vốn, tỷ suất sinh lợi trong bảng 4.14 hồi quy GMM bằng 3.857 với mức ý nghĩa 5%, điều này đồng nghĩa với việc các ngân hàng thương mại thích sử dụng lợi nhuận giữ lại hơn các nguồn tài trợ khác, kết quả này ủng hộ lý thuyết trật tự phân hạng. Lý thuyết trật tự phân hạng cho thấy các ngân hàng và các công ty thích tài trợ nội bộ hơn tài chính bên ngoài (Bitar và cộng sự, 2017) vì tài chính cổ phần bị đánh giá thấp và cho tín hiệu không mấy khả quan (Belkhir và cộng sự, 2016). Do đó, nếu các ngân hàng sẵn sàng sử dụng thu nhập giữ lại để tăng vốn thay vì phát hành vốn cổ phần mới, người ta sẽ kỳ vọng lợi nhuận của ngân hàng sẽ có tác động tích cực đến tỷ lệ vốn của ngân hàng (Rime, 2001). Các nghiên cứu quốc tế gần đây của Smaoui và cộng sự (2019) và Osama El- Ansary (2019) đều có kết luận cho rằng các ngân hàng có lợi nhuận tốt thường có tỷ lệ an toàn vốn cao hơn các ngân hàng còn lại. Tác giả đi đến chấp nhận giả thuyết tìm thấy bằng chứng thống kê về mối quan hệ giữa lợi nhuận và hệ số an toàn vốn:

Giả thuyết H3-2: Có quan hệ đồng biến giữa tỷ suất sinh lợi và tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Tỷ lệ nợ xấu và tính ổn định tài chính

Tỷ lệ nợ xấu thể hiện rủi ro mà các ngân hàng phải đối mặt, khi nợ xấu tăng sẽ làm tăng tỷ lệ tài sản rủi ro của ngân hàng dẫn tới làm giảm tỷ lệ an toàn vốn. Tại Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng đã giảm mạnh từ 3.5% năm 2012 xuống 1.7% năm 2018, đây là kết quả của việc thành lập VAMC (Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam) với nhiệm vụ xử lý nợ xấu. Bên cạnh đó, phân tích tỷ lệ an toàn vốn cho thấy hệ số an toàn của các ngân hàng Việt Nam cũng giảm dần từ năm 2012 đến năm 2018. Hai xu hướng này hàm ý về mối quan hệ cùng chiều giữa nợ xấu và hệ số an toàn vốn. Thật vậy, hệ số hồi quy với GMM bảng 4.14 đã cho kết quả cùng chiều với hệ số bằng 8.508 với mức ý nghĩa 5%. Giải thích cho điều này là khi tỷ lệ nợ xấu tăng, các ngân hàng phản ứng với rủi ro thông qua việc điều chỉnh tăng vốn. Osama El-Ansary (2019) nghiên cứu cho 113 ngân hàng tại các quốc gia mới nổi cho bằng chứng về quan hệ cùng chiều giữa tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Ngoài ra, mối quan hệ cùng chiều cũng cho thấy

các NHTM đã có sự phân bổ hợp lý cơ cấu cho vay, do đó làm giảm thiểu tối đa ảnh hưởng của nợ xấu đến tài sản có có rủi ro do sự phân bổ cơ cấu trong hoạt động cho vay của nhà quản lý. Giả thuyết ban đầu được chấp thuận do tìm thấy bằng chứng thống kê đáng tin cậy về mối quan hệ cùng chiều giữa nợ xấu và hệ số an toàn vốn:

Giả thuyết H3-3: Có quan hệ đồng biến giữa tỷ lệ nợ xấu và tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Khe hở sản lượng và tính ổn định tài chính

Không nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy tác động của chu kỳ kinh tế đến hệ số an toàn vốn. Ruckes (2004) chỉ ra mối quan hệ tiêu cực giữa tăng trưởng tín dụng (trong thời kỳ tăng trưởng) và tỷ lệ vốn. Có lập luận cho rằng rủi ro ngân hàng thấp hơn trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, khiến các ngân hàng giảm vốn điều tiết (Mili và cộng sự, 2017). Ngân hàng có thể tăng tỷ lệ nắm giữ vốn trong thời kỳ bùng nổ kinh tế vì sự tăng trưởng nhanh chóng của tăng trưởng tín dụng (Vithessonthi, 2014). Trong nghiên cứu này, kết quả ủng hộ cho quan hệ ngược chiều giữa khe hở sản lượng và hệ số an toàn vốn, hồi quy GMM bảng 4.14 cho kết quả khi kinh tế suy thoái các ngân hàng tăng lượng vốn nắm giữ để đối phó với rủi ro tín dụng trong giai đoạn này, hệ số của khe hở sản lượng mang dấu âm bằng

-0.572 với mức ý nghĩa 5%. Osama El-Ansary (2019) tìm thấy kết quả tương tự tại trong nghiên cứu của mình cho nhóm mẫu 113 ngân hàng và De Moraes và cộng sự (2016) tại Brazil. Do đó, giả thuyết ban đầu mong muốn tìm thấy bằng chứng thống kê mối quan hệ giữa khe hở sản lượng và hệ số an toàn vốn được chấp nhận:

Giả thuyết H3-4: Có quan hệ nghịch biến giữa khe hở sản và tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Khe hở tín dụng và tính ổn định tài chính

De Moraes và cộng sự (2016) kỳ vọng rằng khe hở tín dụngcó tác động tích cực đến hệ số an toàn vốn, họ lập luận rằng các ngân hàng tăng lượng điều tiết vốn (tăng vốn) để tăng khả năng hấp thụ các khoản lỗ của các tổ chức tài chính trong thời kỳ tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên kết quả thực nghiệm của De Moraes và cộng sự (2016) lại trái ngược, họ tìm thấy mối liên hệ trái chiều giữa khe hở tín dụng và hệ số an toàn vốn. Tương tự, kết quả hồi quy GMM bảng 4.14 cho các ngân hàng thương mại Việt Nam kết luận khi khe hở tín dụng tăng (quy mô tín dụng tăng) làm

giảm hệ số an toàn vốn, hệ số khe hở tín dụng mang dấu âm bằng -0.0023 có ý nghĩa tại mức 1% trong phương trình hồi quy GMM. Giải thích cho điều này phải kể đến rủi ro mà ngân hàng đối mặt khi khe hở tín dụng tăng, điều này thể hiện lượng vốn tín dụng được bơm ra nền kinh tế tăng đồng nghĩa rủi ro tín dụng cao hơn; từ đó, làm tăng tài sản có rủi ro, giảm hệ số an toàn vốn. Kết quả thu được đồng nhất với kết quả của De Moraes và cộng sự (2016) tại Brazil. Tác giả chấp nhận giả giả thuyết đặt ra khi đã tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ giữa khe hở tín dụng và hệ số an toàn vốn.

Giả thuyết H3-5: Có quan hệ nghịch biến giữa khe hở tín dụng và tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Tỷ số thanh khoản và tính ổn định tài chính

Kết quả hồi quy GMM bảng 4.14 cho thấy các ngân hàng có tỷ số thanh khoản cao sẽ có hệ số an toàn vốn tối thiểu cao hơn, tỷ số thanh khoản bằng 0.519 với mức ý nghĩa thống kê 10%. Tỷ lệ thanh khoản cao cho thấy rủi ro thanh khoản của các ngân hàng đã được giảm xuống, từ đó tăng tính ổn định tài chính của ngân hàng.

Lý thuyết trật tự phân hạng chỉ ra rằng việc có một lượng tài sản lưu động lớn hơn sẽ dẫn đến giảm sự bất cân xứng thông tin và tăng khả năng tăng vốn tài chính (Belkhir và cộng sự, 2016). Smaoui và cộng sự (2019) tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ số thanh khoản và tỷ lệ an toàn vốn. Giả thuyết đặt ra đã được chấp nhận khi mà kết quả nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng đáng tin cậy về mối quan hệ giữa tỷ số thanh khoản và hệ số an toàn vốn.

Giả thuyết H3-6: Có quan hệ đồng biến giữa tỷ số thanh khoản và tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Hệ số rủi ro và tính ổn định tài chính

Tỷ số này được tính dựa trên dư nợ cho vay khách hàng và tổng tài sản, hệ số này càng cao cho thấy ngân hàng có tỷ lệ cho vay lớn nhưng đi kèm với nó và rủi ro hình thành nợ xấu do chất lượng các khoản vay. Theo cách lập luận này hệ số rủi ro sẽ tác động tiêu cực đến an toàn vốn. Kết quả nghiên cứu của Xuân Thoa và Ngọc Anh (2017) nghiên cứu cho các ngân hàng thương mại tại Việt Nam từ năm 2011 – 2015 tại Việt Nam ủng hộ quan điểm này. Tuy nhiên, theo Rime (2001), trong một hệ thống các tiêu chuẩn vốn dựa trên rủi ro, các ngân hàng được yêu cầu điều chỉnh

tỷ lệ vốn của mình để đối phó với sự gia tăng rủi ro để giữ cho tỷ lệ vốn điều chỉnh rủi ro của họ không đổi. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho 30 ngân hàng tại Việt Nam từ 2007 đến 2019 cho thấy khi rủi ro tăng lên, các ngân hàng có xu hướng điều chỉnh vốn để hấp thụ rủi ro, kết quả là làm cho hệ số an toàn vốn tăng, hồi quy GMM bảng 4.14 cho dấu hệ số rủi ro dương bằng 0.0264, tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này đáng tin cậy hơn kết quả của Xuân Thoa và Ngọc Anh (2017) do quy mô ngân hàng và giai đoạn thu thập dài hơn. Kết quả nghiên cứu gần đây của Smaoui và cộng sự (2019) cho rằng khi các ngân hàng gia tăng tỷ lệ cho vay sẽ làm tăng hệ số an toàn vốn, hàm ý về mối quan hệ cùng chiều. Tác giả bác bỏ giả thuyết đặt ra do chưa tìm thầy bằng chứng về mối quan hệ giữa hệ số rủi ro và hệ số an toàn vốn.

Giả thuyết H3-7: Có quan hệ đồng biến giữa hệ số rủi ro và tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Tỷ lệ tiền gửi và tính ổn định tài chính

Tiền gửi được xem là sự lựa chọn với chi phí thấp hơn so với tín dụng và các công cụ tài chính tương tự, như tài trợ trái phiếu và chứng khoán hóa cho vay (Kleff và Weber, 2008). Theo Asarkaya và Özcan (2007), tỷ lệ tiền gửi có tác động tiêu cực đến tỷ lệ an toàn vốn.

Kết quả hồi quy GMM bảng 4.14 cho thấy tồn tại mối quan hệ nghịch biến giữa tỷ lệ tiền gửi và hệ số an toàn vốn, hệ số -0.0639 mang dấu âm với hồi quy GMM có mức ý nghĩa tại 1%, các kết quả hồi quy hồi quy FEM và REM lần lượt bằng -0.137 và -0.172 ở bảng 4.11 tương ứng với mức ý nghĩa 1% đã thể hiện sự đồng nhất trong kết luận về tác động trái chiều này. Điều này cho thấy các ngân hàng có tỷ lệ tiền gửi cao hơn sẽ ưu tiên sử dụng nguồn vốn này thay vì các nguồn tài trợ khác có chi phí cao hơn. Smaoui và cộng sự (2019) đo lường cấu trúc tiền gửi với tỷ lệ tiền gửi trên tổng tài sản. Tiền gửi cao hơn đòi hỏi nhiều quy định và giám sát của ngân hàng hơn để bảo vệ quyền của người gửi tiền và ngăn ngừa rủi ro mất khả năng thanh toán. Mili và cộng sự (2017) tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa tỷ lệ tiền gửi và hệ số an vốn vì tiền gửi hình thành nguồn tài chính rẻ hơn cho các ngân hàng. Tương tự, kết luận của Smaoui và cộng sự (2019) cũng cho kết quả nghịch biến. Tác giả chấp nhận giả thuyết ban đầu đặt ra:

Giả thuyết H3-8: Có quan hệ nghịch biến giữa tiền gửi và tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

4.6. Tóm tắt kết quả nghiên cứu.

Luận án đã trình bày chi tiết tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính thông qua mức độ chấp nhận rủi ro dựa trên 3 mô hình nghiên cứu cụ thể:

- Mô hình tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính (đo lường bằng hệ số an toàn vốn CAR).

- Mô hình tác động của chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro (đo lường bằng hệ số PROV).

- Mô hình tác động của mức độ chấp nhận rủi đến tính ổn định tài chính.

Số liệu thu thập từ 30 ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn từ 2007 đến 2019, sử dụng phương pháp Moment hệ thống tổng quát S-GMM (còn được gọi là System GMM), kết quả nghiên cứu được tóm tắt trong bảng sau:

Bảng 4.18 Bảng tóm tắt kết quả luận án so với kỳ vọng và giả thuyết


Chính sách tiền tệ tác động đến ổn định tài chính – Mô hình (1)


Ký hiệu


Tên biến


Kết quả nghiên cứu


Mức ý nghĩa


Kỳ vọng dấu


Chấp nhận/ bác bỏ giả thuyết

IR

Lãi suất tái chiết khấu

-

10%

-

Chấp nhận

R_REG

Mức dự trữ bắt buộc

-

1%

-

Chấp nhận

ROA

Tỷ suất sinh lợi

+

1%

+

Chấp nhận

DEFAULT

Tỷ lệ nợ xấu

+

1%

+

Chấp nhận

O_GAP

Khe hở sản lượng

-

1%

-

Chấp nhận

C_GAP

Khe hở tín dụng

-

1%

-

Chấp nhận

LIQUID

Tỷ lệ thanh khoản

+

1%

+

Chấp nhận

NLTA


Hệ số rủi ro


+

Không có tác động


+


Bác bỏ

DEPTA

Tỷ lệ tiền gửi

-

5%

-

Chấp nhận

Chính sách tiền tệ tác động đến mức độ chấp nhận rủi ro – Mô hình (2)


Ký hiệu


Tên biến


Kết quả nghiên cứu


Mức ý nghĩa


Kỳ vọng dấu


Chấp nhận/ bác bỏ giả thuyết

IR

Lãi suất tái chiết khấu

+

5%

+

Chấp nhận

R_REG

Mức dự trữ bắt buộc

+

1%

+

Chấp nhận

O_GAP

Khe hở sản lượng

-

5%

-

Chấp nhận

DEFAULT

Tỷ lệ nợ xấu

+

1%

+

Chấp nhận

ROA

Tỷ suất sinh lợi

+

1%

+

Chấp nhận

Mức độ chấp nhận rủi ro tác động đến ổn định tài chính – Mô hình (3)


Ký hiệu


Tên biến


Kết quả nghiên cứu


Mức ý nghĩa


Kỳ vọng dấu


Chấp nhận/ bác bỏ giả thuyết

PROV

Dự phòng cho vay

-

5%

-

Chấp nhận

ROA

Tỷ suất sinh lợi

+

5%

+

Chấp nhận

DEFAULT

Tỷ lệ nợ xấu

+

5%

+

Chấp nhận

O_GAP

Khe hở sản lượng

-

5%

-

Chấp nhận

C_GAP

Khe hở tín dụng

-

1%

-

Chấp nhận

LIQUID

Tỷ lệ thanh khoản

+

10%

+

Chấp nhận


NLTA


Hệ số rủi ro


+

Không có tác động


+


Bác bỏ

DEPTA

Tỷ lệ tiền gửi

-

1%

-

Chấp nhận

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/10/2022