là Hansen Test và Arellano-Bond Test để khẳng định rằng biến công cụ thỏa mãn kiểm định overidentification và không tồn tại hiện tượng tương quan bậc 2 trong mô hình S-GMM. Từ đó, kết luận hệ số hồi quy thu được ở mô hình (1) tại bảng 4.12 là đáng tin cậy.
Chính sách tiền tệ tác động đến tính ổn định tài chính:
Trước khi đi sâu vào phân tích tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính thông qua mức độ chấp nhận rủi ro, tác giả tiến hành phân tích tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính. Biến lãi suất tái chiết khấu là biến đại diện cho chính sách tiền tệ, có tác động ngược chiều đến tính ổn định tài chính. Kết quả này được thể hiện trong bảng hồi quy GMM mô hình (1), cụ thể hệ số của lãi suất tái chiết khấu bằng -0.394 có ý nghĩa thống kê tại 10%. Dựa vào kết quả này, tác giả đưa ra kết luận có tồn tại tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính, khi NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ (giảm lãi suất) sẽ tác động làm tăng tính ổn định tài chính thông qua việc điều chỉnh hệ số an toàn vốn của các NHTM; ngược lại, thắt chặt chính sách tiền tệ (tăng lãi suất) sẽ tác động tiêu cực đến tính ổn định tài chính.
Tác động này sẽ được tác giả giải thích rõ hơn ở các phương trình (2) ảnh hưởng của chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro và phương trình (3) tác động của chấp nhận rủi ro đến tính ổn định tài chính.
Một số nghiên cứu đã cho kết quả tương tự, Mili và cộng sự (2017) đã tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ tác động cùng chiều của lãi suất đến hệ số an toàn vốn, trong nghiên cứu của mình, Mili và cộng sự (2017) lý giải việc thay đổi lãi suất đã tác động đến quyết định tăng giảm dư nợ tín dụng của NHTM, khi tăng lãi suất, dưới ảnh hưởng của “áp lực lợi nhuận” và “rủi ro đạo đức” các NHTM đã sẵn sàng chấp nhận mức rủi ro cao hơn để thực hiện những khoản vay với điểm tín dụng thấp, điều này dẫn đến tác động tiêu cực đến tính ổn định tài chính. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Dang & Dang (2020) cũng tìm thấy ảnh hưởng trái chiều của lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay đến sự ổn định tài chính của các NHTM, cụ thể: Dang & Dang (2020) kết luận rằng khi tăng lãi suất làm tăng tỷ lệ nợ xấu của các NHTM, đồng thời làm giảm tính ổn định tài chính. Từ kết quả đạt được và các bằng chứng nghiên cứu trước, tác giả nhấn mạnh rằng kết quả
nghiên cứu đạt được ở mô hình (1) này đã khẳng định được sự ảnh hưởng của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính. Từ kết quả đạt được, tác giả chấp nhận giả thuyết đặt ra:
Giả thuyết H1-1: Việc thắt chặt/nới lỏng chính sách tiền tệ (tăng/giảm lãi suất) của ngân hàng Nhà nước tác động trái chiều đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Các yếu tố khác tác động đến tính ổn định tài chính:
Ngoài lãi suất tái chiết khấu thì các yếu tố tác trong mô hình (1) cũng đã thể hiện tác động như kỳ vọng giả thuyết đặt ra, ngoại trừ hệ số rủi ro. Kết quả các biến kiểm soát ở mô hình (1) hoàn toàn đồng nhất với kết quả thu được ở mô hình (3) tại mục 4.5.3.3, do đó tác giả sẽ diễn giải rõ hơn về những tác động này ở mục 4.5.3.3.
4.5.3.2. Thảo luận kết quả hồi quy GMM tác động chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro.
Trước khi đi vào phần nhận xét kết quả hồi quy, tác giả tóm tắt lại kết quả hồi quy và kiểm định GMM của bảng 4.13 thành bảng 4.16 như sau:
Bảng 4.16 Bảng tóm tắt kết quả GMM tác động của chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro
Ký hiệu | Tên biến | Hệ số GMM cột 1 bảng 4.13 |
IR | Lãi suất tái chiết khấu | 0.0271** |
R_REG | Mức dự trữ bắt buộc | 0.0013*** |
O_Gap | Khe hở sản lượng | -0.0347** |
DEFAULT | Tỷ lệ nợ xấu | 0.169*** |
ROA | Tỷ suất sinh lợi | 0.0011*** |
Hansen Test (P-value) | 0.401 | |
Arellano-Bond AR (2) (P-value) | 0.092 | |
Số nhóm | 30 | |
***, **, * Tương ứng mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% |
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Biến Động Chính Sách Tiền Tệ, Dự Phòng Cho Vay Và Hệ Số An Toàn Vốn Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Từ 2007 – 2019.
- Biến Động Hệ Số Rủi Ro Trung Bình 30 Ngân Hàng Từ 2007 – 2019
- Mô Hình Tác Động Chính Sách Tiền Tệ Đến Mức Độ Chấp Nhận Rủi Ro – Mô Hình (2).
- Thảo Luận Kết Quả Hồi Quy Gmm Mô Hình Tác Động Mức Độ Chấp Nhận Rủi Ro Đến Tính Ổn Định Tài Chính.
- Hàm Ý Chính Sách Đối Với Ngân Hàng Nhà Nước.
- Tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua mức độ chấp nhận rủi ro - 21
Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.
Nguồn: phụ lục 13
- Chính sách tiền tệ và mức độ chấp nhận rủi ro:
Kỳ vọng của NHNN khi sử dụng lãi suất tái chiết khấu để thắt chặt (tăng lãi suất) hay nới lỏng (giảm lãi suất) nhằm mục đích giảm/tăng lượng cung tín dụng của các ngân hàng thương mại, từ đó làm giảm/tăng dự phòng cho vay (mức độ
chấp nhận rủi ro), thể hiện kỳ vọng lãi suất tác động ngược chiều đến mức độ chấp nhận rủi ro của NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, hồi quy GMM bảng 4.13 cho thấy lãi suất tái chiết khấu tác động cùng chiều đến dự phòng cho vay tại mức ý nghĩa 5%. Cụ thể lãi suất có hệ số là 0.0271, tại mức ý nghĩa 5%. Ngoài ra, kết quả hồi quy FEM và REM ở bảng 4.10 cho kết quả về tác động cùng chiều của lãi suất tái chiết khấu đến mức độ chấp nhận rủi ro.
Các kết quả thu được đều đi đến một kết luận thống nhất về tác động cùng chiều của lãi suất tái chiết khấu đến mức độ chấp nhận rủi ro. Kết luận này cho thấy việc tăng/giảm lãi suất sẽ tác động tăng/giảm dự phòng cho vay (mức độ chấp nhận rủi ro). Kết quả nghiên cứu đạt được đã cho thấy chính sách tiền tệ mà NHNN áp dụng thông qua công cụ lãi suất đã không đáp ứng được kỳ vọng của nhà quản lý hệ thống (NHNN). Các nghiên cứu của De Moraes và cộng sự (2016), Montes và cộng sự (2014) cho các NHTM tại Brazil cũng thu được kết quả tượng tự khi mà công cụ lãi suất có ảnh hưởng cùng chiều đến mức độ chấp nhận rủi ro (dự phòng cho vay). Nguyên nhân của tác động cùng chiều này có thể được giải thích dựa trên hệ quả của tình trạng bất cân xứng thông tin (lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức) phát sinh trong thị trường tín dụng, đặc biệt là khi ngân hàng Trung ương giảm lãi suất ngắn hạn De Moraes và cộng sự (2016).
Để giải thích rõ hơn, tác giả sử dụng luận điểm của Dell’Ariccia and Marquez (2006) trong nghiên cứu về bùng nổ cho vay và các tiêu chuẩn cho vay đã kết luận khi các thông tin bất cân xứng đối với các khách hàng của họ trở nên trầm trọng, các ngân hàng duy trì các tiêu chuẩn cho vay cao, hàm ý nhận thức rủi ro của các ngân hàng tăng lên. Ở thị trường mà trong đó đa phần các doanh nghiệp phụ thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng, xác suất xảy ra rủi ro đạo đức là rất cao (Soedarmono và cộng sự, 2012), điều này đúng với Việt Nam khi mà đa phần nguồn vốn các doanh nghiệp được cung cấp bởi hệ thống ngân hàng. Abdelhafid và Mohammed (2019) giải thích tính trạng bất cân xứng thông tin thể hiện rõ trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp nhỏ và ngân hàng, lý do là các ngân hàng còn thiếu cơ chế thu thập và nắm bắt thông tin cũng như cơ cấu tài chính yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là yếu tố chính dẫn đến sự mù mờ trong mối quan hệ này. Lý giải của Abdelhafid và Mohammed (2019) khá hợp lý với tình hình tại Việt Nam,
khi mà trong những năm trở lại đây làn sóng khởi nghiệp và sự xuất hiện của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng mạnh làm hiện tượng bất cân xứng thông tin ảnh hưởng đến thị trường và hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt là ảnh hưởng của nó trong tác động của lãi suất đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Kết luận về ảnh hưởng của bất cân xứng thông tin đến chính sách tiền tệ cũng được tìm thấy với kết quả đồng nhất trong nghiên cứu của De Moraes và cộng sự (2016) và Montes và cộng sự (2014).
Ngoài bất cân xứng thông tin, mối quan hệ cùng chiều giữa lãi suất và dự phòng rủi ro có thể được lý giải dựa trên thành quả kênh chấp nhận rủi ro được nhắc đến trong nghiên cứu của Borio và Zhu (2012) và được nối tiếp trong các nghiên cứu của De Moraes và cộng sự (2016), Montes và cộng sự (2014). Thông qua các nghiên cứu này, công cụ lãi suất tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro thông qua ba hiệu ứng. Hiệu ứng từ sự thay đổi của lãi suất lên định giá, thu nhập và dòng tiền từ đó ảnh hưởng đến nhận thức rủi ro của các NHTM. Hiệu ứng thứ hai được nhắc đến là tác động thông qua mối quan hệ lãi suất thị trường và tỷ suất sinh lợi mục tiêu khi mà tác động thông qua mối quan hệ lãi suất thị trường và tỷ suất sinh lợi mục tiêu của ngân hàng, doanh nghiệp và cá nhân sẽ thay đổi tương ứng với việc tăng/giảm lãi suất tác động đến khả năng chấp nhận vị thế rủi ro tương ứng. Cuối cùng hiệu ứng truyền thông nhấn mạnh về mức độ minh bạch và các cam kết hành động của NHNN tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro.
Tabak và cộng sự (2013) điều tra các tác động của chính sách tiền tệ đối với tăng trưởng tín dụng và các khoản nợ xấu trong giai đoạn 2003 - 2009 tại Brazil. Kết quả đã tìm thấy sự tồn tại của một kênh cho vay của ngân hàng thông qua việc các giai đoạn trong thắt chặt/nới lỏng tiền tệ tác động đến dư nợ của các ngân hàng đã giảm/tăng. Hơn nữa, bằng cách phân tích tác động của chính sách tiền tệ đối với các khoản nợ xấu, họ nhận thấy rằng trong thời gian tăng/giảm lãi suất làm các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng trưởng cao hơn/thấp hơn và cũng làm tăng/giảm hiệu quả hoạt động. Hơn nữa, kết quả chỉ ra sự tồn tại của một kênh chấp nhận rủi ro, trong đó lãi suất chính sách thấp hơn làm tăng rủi ro của các ngân hàng. Trong thời kỳ lãi suất thấp, các ngân hàng lớn tăng rủi ro tín dụng.
Jiménez và cộng sự (2014) trong nghiên cứu thực hiện tại Tây Ban Nha kết luận về mối quan hệ đồng biến giữa lãi suất và khả năng chấp nhận rủi ro. Tương tự, Altunbas và cộng sự (2014) sử dụng xác suất vỡ nợ của các công ty xếp hạng tín nhiệm làm đại diện cho biến chấp nhận rủi ro. Kết quả tìm thấy gia tăng lãi suất có quan hệ cùng chiều với rủi ro vỡ nợ.
Nghiên cứu của Ombunya (2017) tại Kenya về tác động của chính sách tiền tệ đến nợ xấu, kết quả bằng chứng thống kê cho thấy tác động cùng chiều của lãi suất đến tỷ lệ nợ xấu, trong khi đó mức dự trữ tiền mặt cao sẽ làm giảm nợ xấu.
Changjun Zheng và cộng sự (2019) về các nhân tố tác động đến hành vi chấp nhận rủi ro và tỷ lệ nợ xấu của 22 ngân hàng thương mại tại Pakistan từ năm 2010 đến năm 2017, kết luận rằng gia tăng lãi suất cho vay sẽ làm các ngân hàng có xu hướng tăng hành vi chấp nhận rủi ro thông qua việc thực hiện các khoản cho vay với rủi ro cao; từ đó, làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng. Lãi suất cho vay mang một số giới hạn trần và giúp các ngân hàng dễ dàng yêu cầu phí bảo hiểm cao và cho vay đối với các doanh nghiệp rủi ro, dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ tài sản có rủi ro Ngugi (2001), García-Herrero và cộng sự (2009).
De Moraes và cộng sự (2016), Montes và cộng sự (2014) trong các nghiên cứu liên quan đến chính sách tiền tệ đã làm kết luận về quan hệ cùng chiều giữa lãi suất chính sách đến dự phòng rủi ro cho vay, các tác giả này thực nghiện nghiên cứu dựa trên nền tảng về kênh chấp nhận rủi ro và kết luận về ảnh hưởng của bất cân xứng thông tin đặc biệt là khi NHNN giảm lãi suất trong ngắn hạn.
Như vậy, kết quả nghiên cứu từ luận án này ủng hộ giả thuyết về tác động cùng chiều giữa chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro tại NHTMVN:
Giả thuyết H2-1: Việc thắt chặt/nới lỏng chính sách tiền tệ (tăng/giảm lãi suất) của ngân hàng Nhà nước tác động tới mức độ chấp nhận rủi ro cao/thấp hơn của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Mức dự trữ bắt buộc và mức độ chấp nhận rủi ro
Mức dự trữ bắt buộc có tác động trực tiếp lên quy mô tín dụng do đó ảnh hưởng đến tính đón nhận rủi ro, dự trữ bắt buộc được kỳ vọng sẽ có tác động thuận chiều đến dự phòng cho vay, NHNN tăng mức dự trữ bắt buộc đồng nghĩa với việc các ngân hàng có ít nguồn lực hơn để đầu tư và ác cảm hơn đối với những tổn thất của
hệ thống tài chính, do đó thúc đẩy việc thắt chặt cấp tín dụng và tăng trích lập dự phòng. Theo Dang & Dang (2020) thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở Việt Nam duy trì ổn định từ năm 2012 nên tỷ lệ dự dự trữ bắt buộc không phản ánh được tác động của chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro. Vì vậy luận án sử dụng mức dự trữ bắt buộc như một biến kiểm soát trong mô hình. Kết quả ước lượng GMM cho thấy mức dự trữ bắt buộc có tác động cùng chiều đến mức độ chấp nhận rủi ro, cụ thể hệ số của mức dự trữ bắt buộc mang dấu dương lần lượt là 0.0013 khi hồi quy GMM ở bảng 4.13 với mức ý nghĩa tương ứng là 1%. Kết quả hồi quy FEM và REM ở bảng
4.10 cũng cho thấy tác động cùng chiều của mức dự trữ bắt buộc đến dự phòng cho vay khi mà hệ số của mức dự trữ bắt buộc đều mang dấu dương. Kết quả đạt được tương đồng với kết quả mà De Moraes và cộng sự (2016), Montes và Peixoto (2014) tìm thấy trong nghiên cứu tại các ngân hàng quốc gia Nam Mỹ.
- Khe hở sản lượng và mức độ chấp nhận rủi ro
Chu kỳ kinh tế dựa trên GDP đại diện bởi biến O_GAP (khe hở sản lượng). Điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được cải thiện cho nên khả năng vỡ nợ sẽ giảm trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng. Do đó, các ngân hàng sẽ nới lỏng các điều kiện cho vay trong thời kỳ bùng nổ kinh tế và siết chặt trong thời kỳ suy thoái. Điều này cho thấy hành vi cho vay mang tính đồng chu kỳ với tăng trưởng kinh tế (Laeven và Majnoni, 2003; Bikker và Hu, 2002). Theo quan điểm này, dự phòng sẽ có mối tương quan ngược chiều với chu kỳ kinh tế, nghĩa là dự phòng tăng lên trong thời kỳ suy thoái và giảm đi trong thời kỳ tăng trưởng.
Trong luận án này, kết quả hồi quy GMM của khe hở sản lượng ở bảng 4.13 mang dấu âm là -0.0347 có mức ý nghĩa thống kê 5% đã khẳng định mối quan hệ ngược chiều giữa khe hở sản lượng và mức độ chấp nhận rủi ro. Kết quả này cũng đồng nhất trong mô hình hồi quy với FEM và REM, khe hở sản lượng bằng xấp xỉ 0.04 với mức ý nghĩa 1%. Từ đó, tác giả kết luận về tính đồng chu kỳ với tăng trưởng kinh tế thể hiện khi nền kinh tế suy thoái, rủi ro phá sản của các doanh nghiệp cao hơn dẫn tới chất lượng các khoản vay giảm, tỷ lệ nợ xấu tăng và kết quả là dự phòng cho vay trích lập cao hơn.
Các nghiên cứu thực nghiệm đã khẳng định mối liên hệ chu kỳ kinh doanh và tín dụng. Quagliariello (2008) phát hiện ra rằng chu kỳ kinh doanh ảnh hưởng đến tỷ lệ
nợ xấu đối với một nhóm các ngân hàng Ý trong giai đoạn 1985 đến 2002. Nghiên cứu được thực hiện cho 207 ngân hàng đưa ra kết luận khi tình hình kinh tế xấu đi, chất lượng các khoản vay của ngân hàng giảm xuống. Cifter, Yilmazer và Cifter (2009), áp dụng mô hình mạng lưới đã cho thấy một tác động của độ trễ sản xuất công nghiệp (sản lượng ngành công nghiệp) đối với nợ xấu trong hệ thống tài chính Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn từ 1/2001 đến 11/2007. Salas và Saurina (2002) tìm thấy tác động tiêu cực của tăng trưởng GDP đối với tỷ lệ nợ xấu.
Ibish Mazreku và cộng sự (2018) tìm thấy một mối quan hệ nghịch biến giữa tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ nợ xấu tại 10 quốc gia từ năm 2006 đến năm 2016 thông qua hồi quy OLS, Fixed – Effects, Random – Effects, GMM, nghiên cứu chỉ ra rằng khi kinh tế trong giai đoạn tăng trưởng, các ngân hàng có xu hướng chấp nhận rủi ro cao hơn từ đó làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu. Hasni Abdullah (2014) nghiên cứu các nhân tố tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro (dự phòng cho vay) cho các ngân hàng thương mại tại Malaysia chỉ ra mối quan hệ nghịch biến giữa GDP và tỷ lệ dự phòng cho vay. Nghiên cứu gần nhất của Montes và cộng sự (2014), De Moraes và cộng sự (2016) đều cho thấy nhận thức rủi ro mang tính đồng chu kỳ với tăng trưởng kinh kế. Trong các nghiên cứu này, chu kỳ kinh tế được tính dựa trên khe hở sản lượng (O_GAP), kết quả là trong thời kỳ suy thoái, các ngân hàng có mức trích lập rủi ro cao hơn và ngược lại. Từ đó, tác giả chấp nhận giả thuyết đặt ra về tác động trái chiều khe hở sản lượng đến mức độ chấp nhận rủi ro:
Giả thuyết H2-2: Có mối quan hệ nghịch biến giữa khe hở sản lượng và mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Nợ xấu và mức độ chấp nhận rủi ro
Nghiên cứu của Hasan và Wall (2003) cho các ngân hàng tại Châu Âu cho thấy tỷ lệ nợ xấu có tác động cùng chiều lên dự phòng rủi ro cho vay. Tại Việt Nam, Nguyễn Thị Thu Hiền và Phạm Đình Tuấn (2014) nghiên cứu cho các ngân hàng tại từ năm 2008 – 2012 cho thấy kết quả tác động đồng biến của tỷ lệ nợ xấu đến dự phòng rủi ro. Tỷ lệ nợ xấu tăng sẽ kéo sự gia tăng của dự phòng cho vay, đây là mối quan hệ đồng biến tất yếu giữa một bên là rủi ro (nợ xấu) và mức độ chấp nhận rủi ro (dự phòng cho vay). Hồi quy FEM và REM ở bảng 4.10 đã cho kết quả tác động cùng chiều của nợ xấu đến mức độ chấp nhận rủi ro, tỷ lệ nợ xấu đều mang dấu dương,
bằng xấp xỉ 0.189 và 0.184, với mức ý nghĩa 1%. Quan trọng hơn kết quả FEM và REM, kết quả hồi quy GMM bảng 4.13 cũng cho thấy bằng chứng đáng tin cậy về mối quan hệ cùng chiều giữa nợ xấu và mức độ chấp nhận rủi ro, tỷ lệ nợ xấu mang dấu dương bằng 0.169, với mức ý nghĩa 1% tương ứng với độ tin cậy lên đến 99%. Nghiên cứu tại Malaysia của Hasni Abdullah (2014) tìm thấy bằng chứng về tác động cùng chiều của nợ xấu đến dự phòng cho vay, rộng hơn, Ozili (2018) thực hiện cho 19 quốc gia tại Châu Phi khẳng định rằng các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao đồng nghĩa với trích lập dự phòng cho vay nhiều hơn. Nghiên cứu thực nghiệm của De Moraes và cộng sự (2016) cũng cho kết quả tương tự ở các ngân hàng tại Brazil. Kết quả thực nghiệm giúp tác giả chấp nhận giả thuyết:
Giả thuyết H2-3: Có mối quan hệ đồng biến giữa nợ xấu và mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Tỷ suất sinh lợi và mức độ chấp nhận rủi ro
Các ngân hàng có tỷ suất sinh lợi cao và quy mô lớn có khả năng chấp nhận rủi ro ở mức cao hơn các ngân hàng có tỷ số lợi nhuận thấp hơn và quy mô nhỏ hơn. Đây là kết luận từ các nghiên cứu đi trước. Theo hành vi nhà quản trị, tỷ suất sinh lợi và mức độ chấp nhận rủi ro có tương quan cùng chiều. Điều này thể hiện khi lợi nhuận của ngân hàng cao (thấp) các ngân hàng thường có xu hướng tăng (giảm) tỷ lệ dự phòng để giảm thiểu sự biến động của thu nhập hoặc để tránh sự giám sát pháp lý (Wall & Koch, 2000). Khi mà kết quả nghiên cứu tại Việt Nam cho nhóm 30 NHTMVN từ 2007 đến 2019 hồi quy FEM và REM cho kết quả cùng chiều giữa tỷ suất sinh lợi và mức độ chấp nhận rủi ro nhưng không có bằng chứng thống kê thì kết quả hồi quy GMM đã cho kết quả khả quan với độ tin cậy cao hơn, cụ thể hệ số của tỷ suất sinh lợi ở bảng 4.13 hồi quy GMM bằng 0.0011 có ý nghĩa tại mức 1%. Nghiên cứu của (Suhartono, 2012; Hasni Abdullah, 2014) ủng hộ kết quả trong bài nghiên cứu này khi kết luận tỷ suất sinh lợi trước trích lập cao có tác động làm tăng dự phòng rủi ro của các ngân hàng Indonesia. Từ kết quả này, tác giả chấp nhận giả thuyết đặt ra về mối quan hệ thuận chiều giữa tỷ suất sinh lợi và mức độ chấp nhận rủi ro:
Giả thuyết H2-4: Các ngân hàng có tỷ suất sinh lợi cao có mức độ chấp nhận rủi ro cao hơn.