Sự tiếp biến Nho giáo ở Việt Nam qua tục ngữ, ca dao – Dân ca người Việt - 26


phụ nữ khó mà đạt cả bốn. Có lẽ vì vậy mà ít thấy được nhắc đến trong lời ăn tiếng nói của người dân? Chúng tôi chỉ tìm thấy một đôi trường hợp đơn lẻ nên không có cơ hội để đi sâu hơn (Phụ lục, tr. 194).

Quan niệm chung của xã hội thay đổi kéo theo sự thay đổi trong nhận thức của mỗi cá nhân, từ đó xuất hiện những định kiến tiêu cực trong quan niệm về Trinh tiết của người phụ nữ. Tuy nhiên, chúng ta thấy nổi bật hơn vẫn là những nét đẹp về sự trân trọng, cảm thông, chia sẻ của người chồng đối với vợ, dù với người vợ, những gian khổ, cực nhọc, bất công mà họ phải gánh lấy là bổn phận, biểu hiện cụ thể qua đạo lý Tòng phu. Người đàn ông Việt trước nay chưa bao giờ xem người phụ nữ là “kẻ dưới” phải phục tùng. Đối với họ, vợ là người bạn đời cùng nhau sẻ chia những khó khăn trong cuộc sống, trong đó có cả việc cùng nhau thờ kính mẹ cha của cả hai bên. Họ luôn tỏ ra trắc ẩn trước sự khổ nhọc của vợ và trân trọng những đóng góp của người vợ trên con đường công danh của mình. Tất nhiên, đâu đó cũng có những người đàn ông phụ bạc vợ theo cách “giàu đổi bạn, sang đổi vợ”, nhưng đó chỉ là những trường hợp cá biệt, mang tính ngoại lệ.

Đối với người phụ nữ, Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Tiết trinh, Tam tòng, Tứ đức là những đức hạnh họ được biết qua lời dạy bảo của cha mẹ, ông bà, khi đến với họ, chúng là “đạo làm người”. Đạo lý đó vạch rò những chuẩn mực đạo đức, giúp họ tu rèn nhân cách để đủ khả năng chu tất việc gia đình, giữ gìn cho gia đình một cuộc sống thuận hòa, ấm êm và điều này trở thành mục đích sống duy nhất của họ. Đồng thời những chuẩn mực đó đảm bảo cho họ sự kính phục cần thiết từ phía xã hội, khi họ đạt được. Ngược lại, cũng vì tiếp nhận triết lý Nho giáo trong nội hàm đạo đức nhân luân nên nếu xuất hiện sự cưỡng ép, bất công, bất nhân, phi đạo đức, họ không ngần ngại lên tiếng chống đối, thể hiện rò nhất ở nội dung Tiết trinh. Đối với họ những Đạo lý tiếp biến từ Nho giáo là những quan niệm nhân sinh dựa trên cơ sở đạo đức Nhân, Thiện, nếu không đảm bảo được điều đó họ bất tùng, chống đối. Sự phản kháng của họ nhằm vào những hủ tục bất công, bất nhân, không phải chống lại những chuẩn mực luân lý mà họ đã được hấp thu và xã hội trân trọng.


KẾT LUẬN

1. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÃ GIẢI QUYẾT

Cho đến nay, dù trên quan điểm nào, các nhà nghiên cứu Việt Nam và thế giới đều thừa nhận một thực tế: Nho giáo, tiêu biểu là hệ thống đạo đức Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần người Việt. Điều đó không chỉ diễn ra ở tầng lớp quan lại quý tộc mà đối với cả tầng lớp bình dân.

Khi Nho giáo được sự bảo hộ của triều đình, trở thành “cơ sở lý luận chính trị” định hướng cho sự phát triển mọi mặt của đất nước đã chi phối nhiều lĩnh vực mang tính cơ bản trong quá trình phát triển văn hóa tư tưởng dân tộc. Tư tưởng Nho giáo được vận dụng làm triết lý giáo dục. Từ vai trò đó, nó chi phối lĩnh vực giáo dục, thi cử. Kết quả của giáo dục thi cử theo triết lý Nho giáo đã đào tạo ra những con người một lòng phụng sự vua, sống vì lợi ích dân tộc. Với nhân phẩm và ý thức trách nhiệm như vậy cùng sự ủy thác của vua, tầng lớp nho sĩ tiến hành nhiều hoạt động nhằm thúc đẩy sự thâm nhập của Nho giáo vào đời sống người dân.

Việc làm đầu tiên mang tính chính thống của tầng lớp nho sĩ hai triều Hậu Lê và Nguyễn là tham gia biên soạn các bộ luật. Họ tiến hành nghiên cứu một cách cẩn trọng, chọn lựa những yếu tố phù hợp với tâm thức chung của dân tộc để biến các triết lý đạo đức Nho giáo cực đoan xa vời thành những chuẩn mực đạo đức xã hội, thống nhất cách hành xử của dân tộc theo đạo đức Nho giáo. Bên cạnh hoạt động lập pháp ở trung ương, các nho sĩ còn tích cực tham gia vào các hoạt động “lập pháp” ở địa phương nhằm thực hiện lý tưởng “chỉnh đốn phong tục”, phổ biến đạo đức Nho giáo. Họ là những nhân vật trọng yếu trong việc soạn thảo các bản hương ước làm cơ sở “pháp lý” phục vụ cho việc quản lý, xây dựng phong tục ở các địa phương làng xã. Nho giáo thông qua những quy định của “lệ làng” đã làm thay đổi phong tục tập quán của người Việt và theo thời gian trở thành những yếu tố truyền thống của dân tộc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Mặt khác, đưa đến kết quả rò nét, làm thay đổi hẳn diện mạo văn hóa của người Việt phải kể đến sự đóng góp mang tính định hướng tư tưởng của nền giáo dục Nho học, gián tiếp là chủ trương giáo dục của triều đình phong kiến nhưng trực


Sự tiếp biến Nho giáo ở Việt Nam qua tục ngữ, ca dao – Dân ca người Việt - 26

tiếp, quan trọng là hoạt động mở rộng giáo dục, phổ cập Nho giáo qua các sinh hoạt thực tế, gần gũi với người dân của các thầy đồ. Chính những hoạt động này đã từng bước đưa Nho giáo tiếp cận đời sống người dân, có tác dụng uốn nắn nhận thức của cộng đồng theo định hướng Nho giáo, tạo điều kiện cho các hoạt động khác với mục đích truyền bá “đạo thánh hiền” thâm nhập vào đời sống người dân một cách dễ dàng và tự nhiên. Khi đến với người dân tính chất triết lý xa vời của Nho giáo đã được biến chuyển dung hợp với tâm thức dân gian trở thành hệ thống chuẩn mực đạo đức luân lý, dạy người dân cách tu thân, phép ứng xử hướng tới tính thiện.

Kết quả của quá trình tích cực truyền bá đạo đức Nho giáo của những người có quyền lực, uy tín trong xã hội đã bộc lộ rò ràng qua lời ăn tiếng nói của người dân. Thông qua phạm vi tục ngữ, ca daodân ca người Việt, chúng tôi đã xác định được kết quả tiếp biến tư tưởng Nho giáo của người dân theo các nội dung:

(1) Qua việc vận dụng linh hoạt của các Nho sĩ cấp tiến, một số triết lý Nho giáo phức tạp hay không nổi bật đã được cụ thể hóa hoặc không tập trung phổ biến. Ngược lại, những triết lý có ảnh hưởng quan trọng đến nhân luân, sự ổn định của xã hội và quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị rất được nhấn mạnh. Đạo đức Nho giáo khi đến với người dân đã tách khỏi ý nghĩa chính trị, trở thành những quy định về cách tu thân, ứng xử giữa người với người cụ thể và rò ràng trong mọi hành

vi. Vì thế, một số triết lý siêu hình của Nho giáo như Đạo trở thành những quy tắc ứng xử và là lý lẽ của lương tâm gắn chặt với đời sống hiện thực. Đạo với ý nghĩa nguyên lý đã được vận dụng để chuyển tải nguyên tắc đạo đức chuẩn mực, xác lập tính chính thống cho phép tắc ứng xử giữa người với người trong xã hội. Trong khi đó Thiên mệnh đã phát huy khả năng khống chế tinh thần bằng ý nghĩa tâm linh, Mệnh số, Định phận. Trong một giới hạn nhất định kết hợp với yếu tố tâm linh từ các tôn giáo khác, thuyết Thiên mệnh của Nho giáo đã chi phối phần nào thế giới quan và quan niệm nhân sinh của người dân. Tuy nhiên, sự chi phối đó vẫn có sự kiểm soát nhất định bởi tư duy thực tế, tin vào khả năng của con người là chính.

(2) Người dân đã tiếp nhận tư tưởng Nho giáo với nhận thức: đó là những đạo đức nhân văn cơ bản của “đạo làm người” – Đạo lý, vì thế họ tỏ rò sự trân trọng đối với


chúng. Họ đã dùng hình thức tục ngữ, ca dao – dân ca vừa để phổ biến vừa nhằm lưu giữ tư tưởng chung của thời đại.

(3) Dưới cái nhìn tích cực như vậy, người dân dung hợp đạo đức Nho giáo với những yếu tố văn hóa vốn dĩ của mình tạo nên những chuẩn mực làm người lấy bản thiện làm gốc. Trong đó các khái niệm Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Tiết trinh, Tòng phu, của Nho giáo trở thành hệ thống “lý thuyết” đóng vai trò định hướng, góp phần chuẩn hóa các quan niệm đạo đức sẵn có trong bản sắc của dân tộc. Về nội hàm, các đức tính Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa đã trở thành biểu tượng đạo đức truyền thống của người Việt, xây nên tính cách ôn hòa, tôn kính người trên, nhường kẻ dưới của những bậc nam nhi nhưng khi cần cũng đủ dũng mãnh để sẵn sàng ra tay nghĩa hiệp giúp người, hy sinh vì quyền lợi quốc gia dân tộc như hành động của các nghĩa quân Yên Bái với sáu chữ vàng: “Không thành công thì thành nhân”.

Người con gái được chú trọng răn dạy về ý thức giữ gìn Tiết trinh, thuận tùng chồng, bồi thêm nét đẹp cho tính nhân hậu, chịu thương chịu khó nhưng đảm đang hết mực của chị em. Người phụ nữ Việt với những nét đẹp tâm hồn đã trở thành chỗ dựa vật chất và tinh thần cho cả gia đình khi cần và gián tiếp làm tăng sức mạnh toàn dân, giúp dân tộc Việt vượt qua nhiều giai đoạn lịch sử khó khăn.

(4) Để có được sự dung hòa nhẹ nhàng, hòa tan các yếu tố Nho giáo, tạo được sự đồng thuận của người dân, bản thân các yếu tố Nho giáo với những giá trị nhân văn nguyên thủy, kết hợp với sự vận dụng linh hoạt của những người mang nặng trách nhiệm “giáo hóa”, theo thời gian Nho giáo đã làm thay đổi diện mạo văn hóa người Việt, trở thành bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, một số cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

(5) trong điều kiện lịch sử nhất định, cùng nhận thức giới hạn của một số nho sĩ, dưới sự bảo trợ của triều đình phong kiến đã xảy ra tình trạng “bắt chước máy móc”, buộc người dân vào thế “tiếp nhận cưỡng bức”, dẫn đến hệ lụy những định lệ phong kiến hủ bại được xây dựng trên nền tảng triết lý Nho giáo trở thành những thành tố văn hóa không mong muốn tồn tại cùng với hệ thống biểu tượng văn hóa tiến bộ trong phong tục truyền thống của người dân Việt. Đồng thời, tình trạng tiếp


biến thiếu linh động đã biến một số phong tục trở thành hủ tục khiến cho đời sống người dân trở nên nặng nề, gây ra những cái nhìn thiếu thiện cảm đối với một số nội dung Nho giáo, dồn ép người dân đến tình huống phản kháng, chống đối, bộc phát thành những lời ca, câu hát. Nội dung chống đối thể hiện trong tục ngữ, ca dao – dân ca cho thấy sự thẳng thắn, trung thực, không chấp nhận những lề thói bất nhân, bất công âm ỉ trong tâm thức của người Việt, khi có điều kiện chúng biến thành những hành động thực tế không một chút khoan nhượng với cái xấu. Hiện tượng này trong một thời gian dài trở thành điểm nổi bật, đại diện cho thái độ của người dân đối với tư tưởng thống trị Nho giáo. Trên quan điểm giai cấp chúng được nâng lên thành thái độ tẩy chay, chống đối mà người dân lao động dành cho tư tưởng thống trị, Nho giáo. Đồng thời sự tiếp biến tiêu cực trở thành “điểm đen” trong quá trình nhìn nhận sự ảnh hưởng của Nho giáo, tư tưởng phong kiến vào đời sống người dân và đã bị các nhà nghiên cứu phê phán gay gắt.

Khách quan mà nhìn nhận, chúng ta thấy điểm đến cuối cùng của đạo đức Nho giáo là tu chỉnh bản thân, rèn giũa phẩm hạnh thành những công dân đặt lợi ích tập thể lên trên hết. Chính mục tiêu cơ bản này đã giữ cho Nho giáo vị trí như là một “tôn giáo” trong khoảng thời gian dài ở một số nước mà nó đã từng đóng vai trò chủ đạo, trong đó có Việt Nam. Những phân tích và chứng minh của chúng tôi trong công trình này nhằm cụ thể hóa, xác định rò về mặt thực tế, cơ sở mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết thành lời. Thế nhưng, vì là một trong những sản phẩm của chế độ phong kiến lỗi thời, gắn chặt với chính trị nên Nho giáo cũng chịu chung số phận với xã hội sinh ra và nuôi dưỡng nó.

Trong tình hình mới, thế giới đang nỗ lực khẳng định vai trò của văn hóa đối với sự phát triển chung của xã hội, sự ảnh hưởng mang tính quyết định của văn hóa đối với kinh tế đã buộc các quốc gia có những động thái tích cực và những quyết sách tập trung vào sự bảo tồn, giao lưu, trao đổi, tiếp biến văn hóa ngoại sinh để đáp ứng với xu hướng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay. Ở Việt Nam, trước đây, Hồ Chí Minh đã chỉ rò phương cách xây dựng đời sống tinh thần cho xã hội hiện đại qua hình thức giao lưu, tiếp biến văn hóa khi Người tỏ ý không đồng tình với việc cải


cách văn hóa triệt để của Trung Quốc, Người cho rằng: “Với việc xóa bỏ những lễ nghi tưởng niệm Khổng Tử, chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ và trái với tinh thần dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc tác phẩm của Lê - nin” [103, tr. 563]. Theo lời Người, chúng ta không ngần ngại, một lần nữa tiến hành “tiếp biến” tư tưởng của Khổng Tử dung hợp với nội dung cách mạng của hệ thống lý luận Mác – Lê - nin nhằm xây nên một hệ thống biểu tượng văn hóa mới phù hợp với tình hình hiện nay của quốc gia và thế giới?

2. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÔNG TRÌNH

Cuối cùng, dù đã nỗ lực rất nhiều và thực hiện một cách nghiêm túc, mong sẽ đạt được những mục tiêu đã đề ra trước khi tiến hành nghiên cứu đề tài nhưng vì sự phức tạp của vấn đề, cũng như những hạn chế về kiến thức một số ngành có liên quan và sự giới hạn dung lượng của một luận án tiến sĩ, chúng tôi khó tránh khỏi những sai sót và để lại những tồn đọng sau công trình.

- Thứ nhất, chúng tôi chưa thể giải thích được lý do tại sao các phạm trù đạo đức Nho giáo không xuất hiện tương đồng và đầy đủ trong văn bản tục ngữ, ca dao

– dân ca. Sự chênh lệch về tần suất xuất hiện của các phạm trù Nho giáo giữa tục ngữ và ca dao – dân ca là do đâu? Thực tế văn bản này phản ánh điều gì trong ý thức hệ bình dân?

- Thứ hai, chúng tôi chưa làm rò tình hình tiếp biến Nho giáo theo khu vực vùng miền để thấy được sự đa dạng, cũng như những nét khác biệt trong đời sống tinh thần của cư dân ba miền Bắc, Trung, Nam./.



Tài liệu tiếng Việt

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan An (chủ biên,1994), Những vấn đề dân tộc, tôn giáo ở miền Nam, TPHCM.

2. Phan An, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Huỳnh Lứa, Nguyễn Khắc Thuần, Tôn Nữ Quỳnh Trân (2006), Lịch sử Việt Nam từ năm 938 đến 1427, tập III, Trẻ, TPHCM.

3. Trần Thị An, Nguyễn Thị Huế (2001), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập IV, quyển 1, Giáo dục, Hà Nội.

4. Đào Duy Anh (1938/ 2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Hội nhà văn, Hà Nội.

5. Đào Duy Anh (1955/ 2002), Lịch sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

6. Tạ Thanh Bạch (dịch chú, 2003), Minh tâm bảo giám¸ Thanh Hóa.

7. Thu Giang Nguyễn Duy Cần (dịch và bình chú, 2013), Lão Tử Đạo đức kinh, Trẻ, TPHCM.

8. Nguyễn Tài Cẩn (1979), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán – Việt,

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

9. Nguyễn Phương Châm (1998), “Tính chất bác học trong ca dao xứ Nghệ”, Văn hóa dân gian, (3), tr. 46 – 53.

10. Nguyễn Phương Châm (1999), “Thành ngữ, tục ngữ trong ca dao – dân ca”,

Văn hóa dân gian, (3), tr. 59 – 66.

11. Phan Bội Châu (1936/ 1973), Khổng học đăng, Khai trí, Sài Gòn.

12. Nguyễn Đổng Chi (chủ biên,1996), Kho tàng ca dao xứ Nghệ, tập I, Nghệ An.

13. Nguyễn Đổng Chi (chủ biên,1996), Kho tàng ca dao xứ Nghệ, tập II, Nghệ An.

14. Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê (1965/ 2004), Đại cương triết học Trung Quốc, tập I, Thanh niên, TPHCM.

15. Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê (1965/ 2004), Đại cương triết học Trung Quốc, tập II, Thanh niên, TPHCM.

16. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên, 1977/ 1989), Thơ văn Lý Trần, tập II, Khoa học Xã hội, Hà Nội.


17. Nguyễn Đình Chiểu (Hà Huy Giáp giới thiệu, 1975), Truyện Lục Vân Tiên, Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

18. Doãn Chính (chủ biên, 1997), Đại cương triết học Trung Quốc, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19. Phan Huy Chú (Tổ phiên dịch Viện Sử học Việt Nam dịch và chú giải, 1961), Lịch triều hiến chương loại chí, tập II (Quan chức chí, Lễ nghi chí), Sử học, Hà Nội.

20. Phan Huy Chú (Tổ phiên dịch Viện Sử học Việt Nam dịch và chú giải, 1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập II (Lễ nghi chí, Khoa mục chí, Quốc dụng chí, Hình luật chí), Khoa học Xã hội, Hà Nội.

21. Mai Ngọc Chừ (1991), “Ngôn ngữ ca dao Việt Nam”, Nghiên cứu Văn học¸ (2), tr. 24 – 28.

22. Hoàng Chương (chủ biên), Nguyễn Có (2007), Bài chòi và dân ca Liên khu 5,

Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

23. Việt Chương (2005), Từ điển Thành ngữ – Tục ngữ – Ca dao Việt Nam, quyển thượng, Tổng hợp Đồng Nai.

24. Việt Chương (2005), Từ điển Thành ngữ – Tục ngữ – Ca dao Việt Nam, quyển hạ, Tổng hợp Đồng Nai.

25. Lê Văn Chưởng (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trẻ, TPHCM.

26. Thiều Chửu (1942/ 2009), Hán – Việt tự điển, Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

27. Đoàn Trung Còn (dịch và chú giải, 2006), Đại học, Thuận Hóa, Huế.

28. Đoàn Trung Còn (dịch và chú giải, 2006), Trung dung, Thuận Hóa, Huế.

29. Đoàn Trung Còn (dịch và chú giải, 2006), Luận ngữ, Thuận Hóa, Huế.

30. Đoàn Trung Còn (dịch và chú giải, 2006), Mạnh Tử, thượng, Thuận Hóa, Huế.

31. Đoàn Trung Còn (dịch và chú giải, 2006), Mạnh Tử, hạ, Thuận Hóa, Huế.

32. Đoàn Trung Còn (dịch, 2000), Minh đạo gia huấn, Thanh niên, TPHCM.

33. Đoàn Trung Còn (chú giải, 2007), Tam tự kinh, Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/07/2022