là sự kiện nhà Triệu tiến đánh Âu Lạc. Sau khi chiếm được Âu Lạc, chúng đã thi hành một loạt các chính sách cải cách, phát triển về tổ chức bộ máy nhà nước (chia nước ta thành 2 quận, sát nhập vào quốc gia Nam Việt), về kinh tế và âm mưu đồng hóa mặt văn hóa. Dưới sự tác động của các chính sách đó, kinh tế, văn hóa, xã hội của chúng ta có những biến chuyển nhất định và xuất hiện trong xã hội một mối mâu thuẫn mới đó chính là mâu thuẫn dân tộc (mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chính quyền đô hộ phương Bắc). Mặc dù các triều đại phong kiến phương Bắc ra sức đàn áp, tăng cường cai trị đến tận cấp huyện, tổ chức đơn vị hành chính đến cấp hương, xã nhưng không thể nào khống chế nổi các xóm làng người Việt. Chính các xóm làng này là nơi xuất phát điểm cho các cuộc đấu tranh giành độc lập nổ ra. Không cam tâm với thời cuộc, “có áp bức, có đấu tranh”, nhân dân ta đã nổi dậy đấu tranh mạnh mẽ với nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra. Từ khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40) cho đến cuộc khởi nghĩa của Lí Bí (năm 542) với sự ra đời của nhà nước độc lập tự chủ Vạn Xuân, cho đến cuộc khởi nghĩa giành được chính quyền tự chủ của Khúc Thừa Dụ (905). Đặc biệt, năm 938 với chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền đã mở ra một trang lịch sử mới, thời đại mới - thời đại độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc ta, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc.
* Chủ đề: Sự hình thành và phát triển nhà nước phong kiến Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX.
Sau khi đánh bại được quân Nam Hán, năm 939 Ngô Quyền xưng vương, bắt tay vào xây dựng chính quyền mới, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội). Đến năm 944, Ngô Quyền mất. Nhà Ngô suy vong dẫn tới “loạn 12 sứ quân”, đất nước bị chia cắt. Sau khi dẹp “loạn 12 sử quân” năm 968 nhà Đinh được thành lập và tiếp sau đó là nhà Tiền Lê. Các nhà nước phong kiến đã xây dựng một nhà nước sơ khai gồm 3 ban: Văn ban, võ ban và tăng ban. Chia đất nước thành 10 đạo, tổ chức quân đội quy củ hơn. Nhà nước phong kiến thực sự hoàn chỉnh và phát triển bắt đầu từ thế kỉ XI trở đi với sự ra đời của triều đại nhà Lý. Năm 1009, nhà Lý được thành lập. Năm 1010, Lý Công Uẩn - ông tổ triều đại nhà Lý đã chuyển kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội) - đây được coi là sự kiện quan trọng trong LSVN đầu thế kỉ XI - mở ra một giai đoạn phát triển mới. Tiếp nối sự trị vì của nhà Lý là nhà Trần vào năm 1226 với
sự kiện vua nữ duy nhất của lịch sử Việt Nam - Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng mình là Trần Cảnh. Dưới thời Lý - Trần, tổ chức bộ máy đã hoàn chỉnh hơn so với trước, đất nước được chia thành nhiều lộ, trấn do các hoàng tử (thời Lý) hay An phủ sứ (thời Trần) cai quản. Thời Lý-Trần chú trọng phát triển quân đội quy củ, xây dựng hệ thống pháp luật chặt chẽ, cho ra đời bộ luật Hình thư (Thời Lý) hay Hình luật (thời Trần).
Cuối thế kỉ XVI, nhà Trần suy vong. Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, lập ra nhà Hồ. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly chưa đạt được kết quả mong muốn thì lực lượng quân Minh từ phương Bắc đã ồ ạt tiến sang xâm lược. Năm 1407, cuộc kháng chiến của nhà Hồ bị thất bại, đất nước ta lâm vào ách đô hộ của nhà Minh. Ở thời điểm đó, trong nước có rất nhiều cuộc khởi nghĩa đã bùng lên nhưng đều bị dập tắt. Trước sự tàn bạo của kẻ thù xâm lược, cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi đã nổ ra tại Thanh Hóa vào năm 1418. Tuy nhiều lần bị tiến công dữ dội nhưng với ý chí chiến đấu, sự đoàn kết của dân tộc chúng ta đã làm nên chiến thắng lừng lẫy ở trận Chi Lăng
- Xương Giang buộc chúng phải chấp nhận sự thất bại nặng nề.
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, năm 1428 Lê Lợi lên ngôi vua, thực hiện một loạt cải cách mới. Sau khi lên ngôi, vua Lê Thánh Tông tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn. Ở trung ương bãi bỏ chức Thừa tướng và các chức Đại hành khiển. Vua trực tiếp quyết định mọi việc, tập trung quyền lực vào mình, bên dưới là 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Các cơ quan như Ngự sử đài, Hàn lâm viện được duy trì và có quyền hành cao hơn. Cả nước được chia thành 13 đạo thừa tuyên, mỗi đạo có 3 ti (đô ti, thừa ti, hiến ti) trông coi các mặt dân sự, quân sự và an ninh.
Nhìn chung, dưới các triều đại phong kiến Đại Việt đều chú ý tới việc xây dựng quân đội hùng mạnh, chặt chẽ, có quy củ, vấn đề đảm bảo an ninh đất nước rất được coi trọng. Nhân dân tuy phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đi lính, lao dịch, nộp thuế song được nhà nước coi trọng và quan tâm đến đời sống.
Các triều đại phong kiến đều có chính sách đại đoàn kết dân tộc, đặc biệt là với các dân tộc thiểu số ít người, với các tù trưởng ở vùng biên giới. Khi có giặc ngoại xâm, nhà nước đều huy động hoặc khuyến khích họ tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
Trong hoạt động đối ngoại, đối với các nước láng giềng phía Tây và phía Nam như Lan Xang, Chăm Pa, Chân Lạp, nhà nước Đại Việt luôn giữ mối quan hệ hòa hảo, thân thiện mặc dù đôi lúc có xảy ra chiến tranh. Đối với chính quyền phương Bắc, các triều đại phong kiến Đại Việt thực hiện đầy đủ lệ triều cống những luôn giữ vững tư thế của một quốc gia độc lập, tự chủ riêng. Khi bị xâm lược, nhà nước và nhân dân ta sẵn sàng đứng lên bảo vệ Tổ quốc.
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Niệm Về Tài Liệu Văn Học Trong Dạy Học Lịch Sử Ở Trường Phổ Thông
- Xuất Phát Từ Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục Phổ Thông.
- Nhận Xét Chung Về Thực Trạng Sử Dụng Tài Liệu Văn Học Trong Dạy Học Lịch Sử Việt Nam Lớp 10 Ở Trường Thpt Thành Phố Thái Nguyên
- Các Loại Tài Liệu Văn Học Có Thể Sử Dụng Trong Dạy Học Lịch Sử Việt Nam Lớp 10 Ở Trường Phổ Thông
- Sử Dụng Tài Liệu Văn Học Kết Hợp Với Đồ Dùng Trực Quan Giúp Học Sinh Hiểu Sâu Sắc Nội Dung Lịch Sử
- Sử Dụng Tài Liệu Văn Học Trong Dạ Hội Lịch Sử
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Đầu thế kỉ XVI, triều Lê sơ bị suy yếu. Nhân cơ hội đó, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, thành lập ra nhà Mạc. Không chấp nhận chính quyền nhà Mạc, một số quan lại cũ nhà Lê nổi dậy đấu tranh, đứng đầu là Nguyễn Kim. Từ đây, một nhà nước mới được thành lập, sử cũ gọi là Bắc triều. Chiến tranh Nam - Bắc triều bùng nổ cho đến cuối thế kỉ XVI. Nhà Mạc bị lật đổ. Không lâu sau, hình thành một thế lực cát cứ
- thế lực phong kiến họ Nguyễn.
Năm 1627, chiến tranh Trịnh - Nguyễn bùng nổ, không phân thắng bại, hai bên lấy sông Gianh làm ranh giới, chia đất nước thành hai đàng: Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Năm 1771, một cuộc khởi nghĩa nông dân bùng lên ở ấp Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa đã lật đổ được chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong và chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài, đánh đuổi được sự xâm lược của quân Xiêm và Thanh, thành lập ra vương triều Tây Sơn.
Vương triều Tây Sơn tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, năm 1792, vua Quang Trung qua đời. Nhân cơ hội đó, năm 1802, Nguyễn Ánh lật đổ vương triều Tây Sơn thành lập ra nhà Nguyễn.
Kế tiếp sự nghiệp các vương triều trước, nhà Nguyễn cũng đã cải cách đất nươc và thi hành một số những chính sách có lợi cho đất nước Tuy nhiên, với chính sách ngoại giao sai lầm, “đóng cửa” không giao lưu với các nước tư bản phương Tây, thi hành chính sách “giết đạo”, “diệt đạo” đã làm cho nhà Nguyễn gặp nhiều bất lợi, không có điều kiện phát triển.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược. Việt Nam bước sang một thời kì mới.
* Chủ đề: Các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX.
Như các triều đại khác, các triều đại phong kiến Việt Nam cũng không thể nào tránh khỏi được các cuộc xâm lược từ bên ngoài vào mà chủ yếu đến từ các triều đại
phong kiến phương Bắc. Trong chương trình lịch sử lớp 10 đã cung cấp cho HS các kiến thức cơ bản về các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm ở thế kỉ X đến thế kỉ XV. Đầu thế kỉ thứ X, nhân dân Việt Nam đã giành được quyền tự chủ, lật đổ hoàn toàn ách đô hộ, thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc. Nhưng chẳng bao lâu sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, nhân dân ta phải đối mặt với sự xâm lược hai lần của chính quyền phong kiến nhà Tống. Lần thứ nhất, vào năm 980 khi nhận được tin nhà Đinh đang trong tình trạng khó khăn, vua Tống đã đem quân sang xâm lược. Trước tình thế đó, thái hậu Dương Vân Nga đã nhường lại ngôi báu cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, mở ra một triều đại mới - triều đại Tiền Lê. Năm 981, quân Tống tiến vào nước ta. Với sự đoàn kết dân tộc, ý chí chiến đấu kiên cường, quân và dân Đại Cồ Việt đã đánh thắng quân Tống. Tuy nhiên, sau thất bại lần thứ nhất này, quân Tống vẫn nuôi hi vọng một ngày không xa sẽ được “phục thù”, chiếm được giang sơn Đại Việt. Chính vì vậy,vào những năm 70 của thế kỉ XI, trong lúc Đại Việt đang phát triển hưng thịnh dưới thời Lý thì nhà Tống bước vào giai đoạn khủng hoảng. Để thoát khỏi tình trạng này, vua tôi nhà Tống đã quyết định thực hiện mưu đồ xâm lược Đại Việt lần thứ hai. “Nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiềng nể”. Năm 1077, chúng đem quân sang xâm lược nước ta một lần nữa nhưng lần nào cũng vậy, “thời thế sinh anh hùng”quân và dân Đại Việt ngay sau khi nhận được tin cấp báo đã chuẩn bị sẵn sàng tâm thế cho cuộc kháng chiến hứ hai này. Dưới sự lãnh đạo của vua tôi nhà Lý, đặc biệt dưới sự lãnh đạo tài giỏi của thái úy Lý Thường Kiệt, quân ta đã đánh tan giặc ngoại xâm trong trận quyết chiến ở bờ sông Như Nguyệt, làm nên chiến thắng vang dội với sự ra đời của “bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên” của nước ta - Nam quốc sơn hà.
“ Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”[6; tr.97]
Sau cuộc kháng chiến chống Tống, quân và dân Đại Việt dưới thời nhà Trần lại phải đương đầu với một thử thách lớn, trong vòng 30 năm chúng ta phải tiến hành 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên - một đội quân hùng hậu, hiếu chiến thời bấy giờ (1258, 1285, 1287 - 1288).
Dưới sự lãnh đạo của các vị vua nhà Trần như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Thái sư Trần Thủ Độ cùng hàng loạt các vị tướng tài giỏi khác như Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật đặc biệt là Trần Quốc Tuấn cùng với sức mạnh tình đoàn kết quân dân, chúng ta đã khiến cho quân Mông - Nguyên chịu thất bại cay đắng trong các trận Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vạn Kiếp ở hai lần xâm lược năm 1258, 1285 và đau đớn nhất ở trận đại bại trên sông Bạch Đằng năm 1288 trong ba lần xâm lược.
“Bạch Đằng nhất trận hỏa công
Tặc binh đại phá, huyết hồng man giang”[6; tr.98]
Cuối thế kỉ XIV, khi nhà Hồ thành lập chưa được bao lâu thì vấp phải sự xâm lược của quân Minh. Do thiếu sự lãnh đạo và đặc biệt là tình đoàn kết quân dân cho nên năm 1407, cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hồ bị thất bại, nước ta lại rơi vào ách đô hộ. Trước những hành động tàn ác của kẻ thù, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa bùng nổ trên cả nước tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vào năm 1418. Được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, nghĩa quân đã hành quân ra Bắc, quyết chiến với quân Minh, đẩy chúng vào thế bị động. Cuối năm 1427, 10 vạn quân cứu viện ồ ạt tràn vào nước ta đã bị nghĩa quân đánh tan tành ở trận Chi Lăng - Xương Giang, buộc chúng trở về nước.
Dưới thời Tây Sơn, sau khi chính quyền phong kiến chúa Nguyễn bị lật đổ - không cam tâm trước thế cục này cho nên Nguyễn Ánh - cháu của chúa Nguyễn đã chạy sang Xiêm cầu viện. Nhân cơ hội đó, Xiêm điều 5 vạn quân tràn vào nước ta. Tuy nhiên, do sự lãnh đạo tài tình của Nguyễn Huệ và lòng quyết tâm chống giặc của nhân dân ta mà quân Xiêm đã đại bại ở trận Rạch Gầm - Xoài Mút, buộc chúng chấm dứt âm mưu, quay đầu về nước.
Cũng như nhà chúa Nguyễn, sau khi bị thất bại nặng nề, Vua Lê Chiêu Thống đã cầu viện nhà Thanh. Năm 1788, nhà Thanh cử 29 vạn quân sang xâm lược nước ta với danh nghĩa giúp nhà Lê giành chính quyền. Trước tình hình đó, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sau khi lên ngôi Hoàng đế vào ngày 25 tháng 11 năm 1788 đã chỉ huy quân tiến ra Bắc. Trận hành quân thần tốc từ đêm 30 Tết (tức 25/1/1789) cho tới mùng 5 Tết quân ta đã tiến đến thành Thăng Long, chiến đấu quyết liệt và giành thắng lợi ở trận Ngọc Hồi - Đống Đa.
* Chủ đề: Kinh tế - xã hội Việt Nam thời phong kiến (từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX)
Đầu thế kỉ X, sau khi giành được độc lập, tự chủ, nhân dân cả nước lại bắt tay vào công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước. Công cuộc khai hoang, mở rộng diện tích canh tác ngày càng gia tăng. Các vị vua triều đại Tiền Lê, Lý, Trần ban bố nhiều chính sách động viên nhân dân sản xuất, khai hoang, lập điền trang. Đại Việt thời bấy giờ thường xuyên bị nạn lụt đe dọa, gây nhiều khó khăn, cho nên bên cạnh việc phát triển nông nghiệp, các triều đại phong kiến luôn chú trọng việc đê điều, chống lũ. Do vậy, làng xóm được bảo vệ, mùa màng được ổn định.
Đất nước thống nhất, thủ công nghiệp có điều kiện phát triển nhanh chóng. Các nghề thủ công truyền thống ngày càng phát triển, chất lượng sản phẩm được nâng cao, một số làng nghề thủ công đươc hình thành.
Sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp đã đẩy mạnh sự phát triển của thương nghiệp. Các chợ làng, chợ huyện, chợ chùa mọc lên ở nhiều nơi, giao lưu buôn bán các sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp ngày càng nhộn nhịp. Hình thành các đô thị và hải cảng lớn, có sự giao lưu buôn bán với thương nhân nước ngoài.
Sự phát triển của kinh tế trong hoàn cảnh chế độ phong kiến vừa góp phần nâng cao đời sống nhân dân, củng cố nền độc lập dân tộc, vừa đẩy nhanh sự phân hóa giai cấp. Do có nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân bùng lên, nhất là vào cuối thế kỉ XIV.
Từ cuối thế kỉ XV đến đều thế kỉ XVI, ruộng đất ngày càng tập trung vào tay địa chủ, quan lại. Nhà nước không quan tâm đến sản xuất như trước. Mất mùa, đói kém, cuộc sống cực khổ liên miên đã khiến nhân dân nổi dậy đấu tranh. Đến nửa sau thế kỉ XVII mới dần ổn định trở lại.
Đàng Trong và Đàng Ngoài tiếp tục khai hoang, mở rộng diện tích đất canh tác. Nhân dân hai miền ra sức sản xuất, bồi đắp đê đập, nao vét mương máng, cải thiện giống và kĩ thuật canh tác. Do vậy mà kinh tế thời điểm này ngày càng phát triển. Tuy nhiên, đây cùng là giai đoạn gia tăng tình trang tập trung ruộng đất vào tay giai cấp địa chủ phong kiến.
Trong thủ công nghiệp, bên cạnh những nghề thủ công nghiệp truyền thống thì xuất hiện nhiều nghề thủ công nghiệp mới như làm đồng hồ, làm tranh sơn mài, khắc in bản gỗ…Số lượng làng nghề, phường hội ngày càng gia tăng, chất lượng sản phẩm thủ công ngày một tốt hơn. Ngoài ra, ngành khai mỏ cũng được chú trọng, phát triển ở cả hai Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Từ thế kỉ XVI - XVII, buôn bán phát triển mạnh ở miền xuôi. Các chợ huyện, chợ phủ mọc lên khắp nơi. Nhiều nơi trong nước đã xuất hiện làng buôn, trung tâm buôn bán của vùng, các đô thị ngày càng hưng khởi, việc buôn bán giữa các vùng được tăng lên, các mặt hàng buôn bán đa dạng, dồi dào hơn. Cũng trong thời gian này, do sự giao lưu buôn bán trên thế giới và do chủ trương mở cửa của chính quyền Trịnh, Nguyễn nên ngoại thương phát triển nhanh chóng.
Ngoại thương phát triển rầm rộ một thời gian nhưng đến giữa thế kỉ XVIII bị suy yếu. Chế độ thuế khóa ngày càng nặng nề, phức tạp cho nên kinh tế dần xuống dốc.
Đầu thế kỉ XIX - dưới thời nhà Nguyễn, nông nghiệp lạc hậu, không có gì đổi mới, ruộng đất hoang hóa nhiều. Từ năm 1804, nhà nước ban hành chính sách quân điền nhưng ruộng đất công chỉ còn có 20% tổng diện tích ruộng đất. Hơn nữa, do chính sách ưu tiên ruộng đất cho quý tộc, quan lại, binh lính cho nên ruộng đất công làng xã không còn nhiều. Nhà Nguyễn đã khuyến khích nhân dân khai hoang nhưng diện tích đất tăng lên không nhiều. Hàng năm, nhà nước cố gắng bỏ tiền, thóc, huy động nhân dân đắp đê, nạo vét kênh mương song vẫn không khắc phục được lũ lụt.
Khác với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp có cơ hội phát triển hơn, các làng nghề, phường hội được duy trì, có sự giao lưu với các vùng khác tuy nhiên không thể hưng thịnh được như thời gian trước.
Vào thế kỉ XVIII, nhà nước phong kiến ngày càng tăng thêm tính chuyên chế, thiên tai, mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, từ đó dẫn tới nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp cả nước. Tiêu biểu như khởi nghĩa của Phan Bá Vành, Cao Bá Quát, Lê Văn Khôi, Nông Văn Vân …
* Chủ đề: Văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X - XIX
Bước sang thời kỳ độc lập trong bối cảnh có chủ quyền độc lập, Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo du nhập vào nước ta có điều kiện phát triển. Nho giáo dần trở thành hệ
tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị, đặt ra các nguyên tắc chi phối xã hội, giáo dục, khoa cử. Tuy nhiên, ở thế kỉ X - XV, ảnh hưởng của nho giáo trong nhân dân hạn chế, còn đạo Phật lại giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và rất phổ biến. Ở giai đoạn này, đạo Phật được coi là quốc giáo. Đạo giáo tuy không phổ biến nhưng hòa lẫn với tín ngưỡng dân gian, được nhân dân đón nhận. Từ cuối thế kỉ XIV, Phật giáo và Đạo giáo suy dần. Thời Lê Sơ, Nho giáo chính thức được nâng lên vị trí độc tôn. Vị trí đó được duy trì cho đến thế kỉ XIX. Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo, vào thế kỉ XVI, Thiên Chúa giáo du nhập vào nước ta và có cơ hội phát triển. Tuy nhiên, về sau, dưới nhà Nguyễn chủ trương độc tôn Nho giáo, hạn chế sự hoạt động của các tôn giáo khác, đặc biệt là Thiên Chúa giáo đã làm cho tôn giáo này không có cơ hội phát triển.
Giáo dục được đặc biệt chú trọng. Năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu. Năm 1075, khoa thi quốc gia đầu tiên đã được tổ chức. Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, giáo dục Đại Việt từng bước phát triển, trở thành nguồn đào tạo quan chức và người tài. Thời Lê Sơ, quy chế thi cử được ban hành rõ ràng. Năm 1484, nhà nước quyết định lập bia Tiến sĩ. Đến thời nhà Mạc, giáo dục tiếp tục được quan tâm, thường xuyên tổ chức các kì thi để chọn nhân tài. Từ khi đất nước bị chia cắt cho đến thời nhà Nguyễn, giáo dục vẫn được chú trọng tuy nhiên kết quả không đạt được như mong đợi.
Sự phát triển của giáo dục góp phần phát triển văn học ở thế kỉ X - XV. Ban đầu, văn học mang nặng tư tưởng Phật Giáo. Từ thời Trần, văn học dân gian ngày càng phát triển. Xuất hiện hàng loạt các nhà thơ với các tác phẩm nổi tiếng như Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Bạch Đằng Giang phú…Sang đến thế kỉ XVI - XVII, cùng với sự suy thoái của Nho giáo, văn học chữ Hán mất dẫn vị thế vốn có. Tuy vậy, ở giai đoạn này, văn học chữ Nôm dần trở nên phổ biến và trở thành một trào lưu văn học dân gian khá rầm rộ.
Nghệ thuật cũng có những bước phát triển mới. Các công trình kiến trúc, tác phẩm điêu khắc mang hơi hướng tôn giáo xuất hiện ngày càng phổ biến. Các loại hình văn hóa dân gian như hát chèo, hát tuồng, múa rối nước… vẫn được giữ gìn và phát huy.
Cùng với sự phát triển của giáo dục và ý thức của dân tộc, nhiều ngành khoa học - kĩ thuật đã đạt nhiều thành tựu nổi bật. Về sử học, có bộ Đại Việt sử kí (của Lê Văn Hưu) - bộ sách sử chính thống của nhà nước - được biên soạn, Đại Việt thông sử,