Ở đây, chúng tôi thống kê giá trị từ điểm 4 vì không có điểm kiểm tra nào dưới
4. Dựa vào kết quả tổng hợp điểm kiểm tra, chúng tôi đã tính tham số trung bình cộng (𝑋̅), đặc trưng cho sự tập trung số liệu; độ lệch chuẩn (S), tham số đo độ chụm của các số liệu quanh giá trị trung bình cộng và giá trị khảo sát (t) để xác định ý nghĩa của công tác TNSP khi đối chiếu với giá trị (𝒕𝜶) tương ứng trong bảng phân phối Student. Cụ thể:
- Công thức ttính trung bình cộng: 𝑋̅ = ∑ 𝑥𝑖.𝑛𝑖
𝑛
Trong đó: + ni là tần số của giá trị xi
(1)
+ n là số học sinh tham gia thực nghiệm.
- Công thức tính độ lệch chuẩn: Độ lệch chuẩn (ký hiệu là S), còn tham số phương sai độ lệch chuẩn (ký hiệu là S2).
- Công thức tính phương sai có dạng như sau:
S2 = √∑ 𝑛𝑖(𝑥𝑖−𝑥̅)2
𝑛−1
(2)
- Độ lệch chuẩn là căn bậc hai của phuơng sai, do vậy công thức tính như sau:
S = √∑ 𝑛𝑖(𝑥𝑖−𝑥̅)2
𝑛−1
(3)
- Tiến hành so sánh sự khác biệt giữa nhóm thực nghiệm và đối chứng. Chúng tôi sử dụng phép thử Student để tìm sự khác biệt giữa hai nhóm. Sự khác biệt đó được tính theo công thức sau:
𝑡 = (𝑋̅
𝑇𝑁
− 𝑋̅𝐷𝐶
)𝑛
√
𝑆2 + 𝑆2
(4)
Trong đó:
𝑇𝑁
𝐷𝐶
𝑇𝑁
𝑋𝑇𝑁 và 𝑆2 là giá trị trung bình và phương sai của nhóm thực nghiệm.
𝐷𝐶
𝑋𝐷𝐶 và 𝑆2 là giá trị trung bình và phương sai của nhóm thực nghiệm. n là số người tham gia thực nghiệm
Dùng bảng Student với α = 0,05 và độ lệch chuẩn tự do k = 2n-2 để tìm tα tới hạn.Sự khác biệt giữa hai nhóm thực nghiệm và đối chứng chỉ có ý nghĩa khi t > tα và vô nghĩa khi t < tα.
Sau đây là bảng số liệu thống kê minh chứng kết quả của quá trình thực nghiệm sư phạm sử dụng tài liệu văn học trong quá trình dạy học lịch sử Việt Nam ở trường phổ thông.
Bảng 2.2. Tổng hợp điểm kiểm tra
Lớp | Điểm 4 | Điểm 5 | Điểm 6 | Điểm 7 | Điểm 8 | Điểm 9 | Điểm 10 | |
I n=51 | TN | 00 | 03 | 06 | 10 | 15 | 11 | 06 |
ĐC | 01 | 05 | 08 | 15 | 12 | 07 | 03 | |
II n=50 | TN | 01 | 03 | 10 | 14 | 15 | 05 | 02 |
ĐC | 02 | 05 | 12 | 16 | 12 | 02 | 01 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Loại Tài Liệu Văn Học Có Thể Sử Dụng Trong Dạy Học Lịch Sử Việt Nam Lớp 10 Ở Trường Phổ Thông
- Sử Dụng Tài Liệu Văn Học Kết Hợp Với Đồ Dùng Trực Quan Giúp Học Sinh Hiểu Sâu Sắc Nội Dung Lịch Sử
- Sử Dụng Tài Liệu Văn Học Trong Dạ Hội Lịch Sử
- Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường Trung học phổ thông thành phố Thái Nguyên - 11
- Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường Trung học phổ thông thành phố Thái Nguyên - 12
- Phần Trắc Nghiệm (3Đ): Khoanh Tròn Chữ Cái Trước Đáp Án Đứng
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Bảng 2.3. Thống kê tần số lần điểm tại các giá trị điểm số của các lớp TN và ĐC từ kết quả TNSP. (Đơn vị: %)
Lớp | Điểm 4 | Điểm 5 | Điểm 6 | Điểm 7 | Điểm 8 | Điểm 9 | Điểm 10 | |
I n=51 | TN | 0 | 5,8 | 11,8 | 19,6 | 29,4 | 21,6 | 11,8 |
ĐC | 1,9 | 9,8 | 15,8 | 29,4 | 23,5 | 13,7 | 5,9 | |
II n=50 | TN | 2 | 6 | 20 | 28 | 30 | 10 | 4 |
ĐC | 4 | 10 | 24 | 32 | 24 | 4 | 2 |
Căn cứ vào bảng tổng hợp về tần số lần điểm tại các giá trị điểm số trên bảng 2.5, chúng tôi đã thể hiện tỉ lệ này trên biểu đồ để xem xét một cách trực quan hơn về hiệu quả của các biện pháp được tiến hành.
35%
30%
25%
20%
15%
TN
ĐC
10%
5%
0%
Điểm 4 Điểm 5 Điểm 6 Điểm 7 Điểm 8 Điểm 9 Điểm 10
Hình 2.1. Biểu đồ sánh tỉ lệ giữa lớp TN và lớp ĐC nhóm I (đơn vị:%)
35%
30%
25%
20%
15%
TN
ĐC
10%
5%
0%
Điểm 4
Điểm 5
Điểm 6
Điểm 7
Điểm 8
Điểm 9 Điểm 10
Hình 2.2. Biểu đồ sánh tỉ lệ giữa lớp TN và lớp ĐC nhóm II
Qua quan sát biểu đồ (Hình 2.1 và Hình 2.2) chúng ta có thể thấy rõ sự chênh lệch điểm số giữa các lớp TN và lớp ĐC. Ở các lớp TN, điểm 8; 9; 10 tập chiếm tỉ lệ nhiều so với các điểm 4; 5; 6 và ngược lại, ở các lớp ĐC điểm 4; 5; 6 chiếm tỉ lệ cao hơn. Tỉ lệ điểm số chiếm nhiều nhất ở lớp TN là điểm 8, trong khi đối với lớp ĐC là điểm 7.
Trên cơ sở số liệu kết quả thu nhận được, chúng tôi tiếp tục tiến hành xử lý theo công thức toán học xác suất thống kê (công thức 1, 2, 3 phụ lục 3) để tính ra điểm trung bình cho các nhóm lớp (mỗi nhóm có lớp ĐC và lớp TN), tính ra độ lệch chuẩn. Chúng tôi thu đã được điểm trung bình cộng và lệch chuẩn của nhóm TN và nhóm ĐC như sau:
Bảng 2.4. Bảng tổng hợp điểm trung bình cộng và lệch chuẩn của nhóm TN và ĐC
I | II | |
𝑋̅𝑇𝑁 S | 7,84 (1,36) | 7,27 (1,28) |
𝑋̅𝐷𝐶 S | 7.27 (1,40) | 6,82 (1.24) |
𝑋̅𝑇𝑁 - 𝑋̅𝐷𝐶 | 0,04 | 0,04 |
Phân tích bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy: Ở lớp TN kết quả đạt được cao hơn lớp ĐC, độ lệch chuẩn trung bình cộng là 0.04. Như vậy, chúng ta thấy rằng có sự khác biệt giữa lớp TN và lớp ĐC, mặc dù mức độ chênh lệch ở không đáng kể nhưng đã chứng minh cho thấy hiệu quả bước đầu của phương pháp.
Để khẳng định tính hiệu quả của biện pháp sử dụng TLVH trong quá trình DHLS Việt Nam ở trường PT, chúng tôi tính phương sai, tham số (t) của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm và đã thu được kết qua như sau:
Bảng 2.5. Giá trị t và tα của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng
I | II | |
t | 2,09 | 1,59 |
t | 0,10 | 0,08 |
Như vậy, khi so sánh giữa t và α trong 2 nhóm, chúng ta thấy rằng t luôn lớn hơn tα. Điều đó đã chứng minh về phương diện thống kê, sự khác biệt giữa nhóm TN và nhóm ĐC là có ý nghĩa, phương pháp này đã tạo ra được sự chuyển biến về nhận thức của HS. Nó cũng chứng minh rằng các biện pháp sư phạm mà luận văn đề xuất là đúng, có tính khả thi, phổ biến; bất kì GV lịch sử nào cũng có thể áp dụng được trong quá trình DHLS Việt Nam hiện nay ở các trường THPT địa bàn thành phố Thái Nguyên.
2.5.5. Tổng hợp ý kiến GV thực nghiệm
Ngoài việc sử dụng phương pháp toán học xác suất thống kê để phân tích kết quả thực nghiệm của đề tài, tôi còn tiến hành trao đổi, tổng hợp ý kiến của các GV cùng tham gia thực nghiệm và một số ý kiến của HS để có những đánh giá khả quan nhất. Đây chính là những căn cứ giúp tôi có thể rút ra những kết luận khách quan, chính xác.
Đại đa số ý kiến GV và HS đều tập trung xoay quanh một số vấn đề sau :
- GV thực nghiệm khẳng định TLVH đưa vào giáo án TN là vừa đủ, không ôm đồm kiến thức, không dàn trải, không làm nặng nề giờ học. Các biện pháp sư phạm được áp dụng trong giáo án TN đã tạo ra được hứng thú học tập cho các em. Bài giảng không những thoát li ra được tâm trạng nặng nề khi học lịch sử mà trái lại làm cho HS hết sức thoải mái khi tiếp cận với nguồn tài liệu liên quan trực tiếp đến nội dung bài
học, vì vậy các em tích cực chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức. Về điều này, cô giáo Đỗ Thị Hồng Hạnh đã bày tỏ ý kiến rằng: “Ở các lớp đặc biệt, như một số tiết trước, không có nhiều HS hào hứng học giờ lịch sử, các em đa phần uể oai và tỏ ra chán nản. Tuy nhiên, khi thiết kế giáo án theo đề tài này, tôi thấy rõ HS có sự hứng thú, mặc dù không phải hoàn toàn tập thể nhưng đại đa phần các em đã tích cực tham gia các hoạt động của giờ học, không khí học tập rất thoải mái”
- Một số ý kiến HS cũng đều đồng thuận với quan điểm sử dụng TLVH trong DHLS là rất có ích. Theo em Nông Xuân Thụy - HS lớp 10A2 cho biết: “Mặc dù lớp em đa phần theo ban tự nhiên, các bạn rất ngại học môn xã hội, đặc biệt là môn Lịch sử nhưng giờ học hôm nay em thấy rất khác. Các bạn đa phần hứng thú với bài giảng, một số bạn cá biệt đã chú ý đến bài giảng của cô và có sự tương tác làm bài tập trong nhóm.” Hay ý kiến của em Triệu Đình Đạt - HS lớp 10A6: “Thường ngày em rất sợ học tiết Lịch sử, nói thật là rất nhàm chán, khô khan nhưng hôm nay tiết học rất khác, em thấy bài không những dễ hiểu mà còn rất hay, cuốn hút”.
Những ý kiến trên đã chứng tỏ rằng, phương pháp sư phạm mà chúng tôi đề xuất sử dụng TLVH trong DHLS Việt Nam là cần thiết, nó đáp ứng yêu cầu của đa số GV phổ thông trong việc khắc phục những lối dạy chay, đọc - chép, truyền thụ một chiều, góp phần kích thích sự say mê, sáng tạo trong học tập, đặc biết đối với bộ môn lịch sử.
- Những ý kiến của GV cũng cho rằng, TLVH sử dụng trong DHLS Việt Nam có tác dụng rõ rệt đối với HS trên cả 3 mặt: giáo dục, giáo dưỡng và kĩ năng. Tuy nhiên, để có nguồn TLVH sử dụng trong DHLS đòi hỏi GV phải đầu tư thời gian, công sức, nghiêm túc từ những khâu đầu tiên như sưu tầm, lựa chọn tài liệu cho đến những khâu thiết kế giáo án, vận dụng vào giờ học.
Tóm lại, trên cơ sở thực nghiệm, xử lý kết quả và tiến hành trao đổi với GV và HS, chúng tôi có thể kết luận rằng việc sử dụng TLVH trong quá trình DHLS Việt Nam nếu có sự chuẩn bị công phu và nghiêm túc, chắc chắn rằng chất lượng học tập môn lịch sử ở chương trình giáo dục PT ngày càng một được cải thiện và phát triển hơn.
Như vậy, chương 2 của luận văn đã tập trung xây dựng hệ thống các phương án sử dụng TLVH trong DHLS Việt Nam và trình bày công việc TNSP nhằm đánh giá tính khả thi của các biện pháp được áp dụng ở lớp 10 trường THPT thành phố Thái Nguyên. Kết quả đã chứng minh, các biện pháp mà tác giả đề xuất được sử dụng trong bài học nội khóa như: sử dụng TLVH để làm hoạt động khởi động, để khắc sâu nội dung lịch sử, kết hợp với ĐDTQ giúp HS hiểu sâu sắc kiến thức, để tổ chức trao đổi, đàm thoại và xây dựng các bài tập nhận thức...bước đầu đã khẳng định tính hiệu quả.
Do đặc thù về mặt tâm lí, nhận thức của HS THPT thành phố Thái Nguyên và điều kiện dạy học của từng trường, khi GV sử dụng TLVH trong DHLS cần lưu ý lựa chọn và vận dụng nhuần nhuyễn những biện pháp mà tác giả đề xuất để nâng cao chất lượng giờ học, khắc sâu kiến thức, kích thích hứng thú học tập lịch sử của các em đồng thời định hướng năng lực và giáo dục tư tưởng, thái độ chuẩn mực, lập trường chính trị vững vàng cho các em.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
1. Giáo dục PT nói chung luôn hướng tới mục tiêu đào tạo ra những thế hệ phát triển toàn diện, năng động, sáng tạo để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Môn Lịch sử ở trường PT cũng là một trong số những môn có nhiệm vụ trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Vì vậy, nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử là một nhiệm vụ cần thiết và cấp bách. Hướng nghiên cứu của đề tài là sử dụng TLVH trong DHLS Việt Nam ở trường PT đã góp một phần nhỏ công sức trong việc giải quyết các hướng phát triển, đổi mới phương pháp DHLS, phát huy tính tích cực của HS, nâng cao chất lượng dạy học hiện nay.
2. Trên thực tế, việc nâng cao chất lượng DHLS là một công việc khó. Đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu kĩ đối tượng, địa điểm dạy học từng khu vực để vận dụng phương pháp sao cho phù hợp. Do đó, đa phần GV đã nhận thực được tầm quan trọng của các PPDH mà tiêu biểu đó là phương pháp sử dụng TLVH trong quá trình DHLS Việt Nam. Mặc dù đã có GV sử dụng phương pháp này nhưng cách thức tiến hành vẫn chưa đạt yêu cầu, chưa phát huy triệt để hay sử dụng phương pháp này mang tinh thần đối phó, có hình thức. Cho nên chất lượng giờ học lịch sử chưa thể hoàn toàn đạt mức tuyệt đối về chất lượng.
3. Trong quá trình sử dụng TLVH hay bất kì một phương pháp nào để dạy học lịch sử thì GV cần phải chú ý đến những đặc điểm tâm sinh lí, khả năng nhận thức của từng đối tượng đề vận dụng những biện pháp sư phạm phù hợp nhất nhằm phát huy tối đa năng lực của các em trong việc tiếp thu kiến thức. Bởi việc hiểu sâu sắc những kiến thức lịch sử sẽ là cơ sở các em hiểu đúng những quy luật, bản chất của lịch sử, góp phần không nhỏ vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhân cách HS. Từ đó, các em sẽ xác định được trách nhiệm của mình đối với gia đình, xã hội, đất nước.
4. Việc sử dụng TLVH trong DHLS Việt Nam ở trường PT sẽ cung cấp cho HS những hiểu biết sinh động, cụ thể về lịch sử dân tộc; từ đó giúp các em hiểu được mối quan hệ mật thiết giữa văn học với lịch sử; làm cho bài giảng lịch sử trở nên gần gũi, có sức hấp dẫn, thuyết phục, kích thích hứng thú của các em đối với môn học. Từ sự hứng thú học tập, các em sẽ tích cực tìm tòi những kiến thức lịch sử mà các em chưa biết, sẽ khơi dậy được khả năng tư duy độc lập sáng tạo, sự phát triển năng lực nhận thức và niềm say mê học tập.
5. Khi sử dụng TLVH trong quá trình DHLS, GV hết sức lưu ý, bởi đây là nguồn tài liệu vô cùng đa dạng và phong phú cho nên cần chọn TLVH sao cho phù hợp với mục tiêu của từng nội dung và thời gian quy định trong chương trình, không làm loãng kiến thức lịch sử dân tộc, không “biến giờ sử thành giờ ngữ văn”. Để thực hiện được điều này, khi sử dụng TLVH cho bài giảng, người GV cần xác định rõ mục đích, hình thức sử dụng, yêu cầu khi sử dụng và cần xác định cả nguồn tài liệu cũng như đối tượng được sử dụng. Đây chính là cách thể hiện tính khoa học và cũng ý thức trách nhiệm của GV khi DHLS Việt Nam.
6. Qua quá trình nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, bước đầu tôi đã đưa ra 10 biện pháp sử dụng TLVH trong DHLS nhằm nâng cao sự hứng thú và chất lượng dạy học bộ môn. GV có thể vận dụng TLVH vào quá trình hoạt động nội khoá như tổ chức hoạt động khởi động tạo hứng thú học tập cho HS, khắc sâu kiến thức, kết hợp với đồ dùng trực quan, tổ chức trao đổi, đàm thoại, xây dựng các bài tập nhận thức và để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS. Đồng thời sử dụng trong các hoạt động ngoại khoá như chuyện lịch sử, trò chơi lịch sử, dạ hội lịch sử và hoạt động đọc sách. Mỗi biện pháp đều tiềm ẩn những ưu và nhược điểm riêng. Do đó, khi tiến hành bất kì hoạt động nào, GVphải lựa chọn, kết hợp khéo léo các biện pháp trong bài giảng của mình, tránh tình trạng ôm đồm, chất đống tài liệu, làm nặng nề không khí giờ học.
7. Quá trình TN đề tài đã diễn nghiêm túc. Bước đầu đã đánh giá được kết quả của phương pháp sử dụng TLVH trong quá trình DHLS Việt Nam ở trường phổ thông. Hầu hết GV và HS đều hài lòng với phương pháp này và mong muốn phương pháp này được sử dụng nhiều hơn trng quá trình học tập môn lịch sử của các em. Đây cũng chính là những căn cứ đầu tiền cho việc khẳng định tính hiệu quả thực tế của phương pháp này.
8. Kết quả thống kê của hoạt động TNSP luận văn đã chứng minh rằng những biện pháp sư phạm mà tôi đề xuất là đúng đắn, hợp lý và có tính khả thi. Từ đó, khẳng định nếu GV và nghiêm túc thực hiện phương pháp này thì chắc chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn lịch sử, đáp ứng được mục tiêu giáo dục mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.