Một Số Khuyến Nghị Về Chính Sách Kinh Tế Vĩ Mô ‌

thực thi.

Tham gia chương trình liên kết thị trường khu vực ASEAN và thế giới theo lọ trình phát triển và đáp ứng yêu cầu về an ninh tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng hạn chế rủi ro, từng bước thu hẹp về khoảng cách phát triển giữa thị trường chứng khoán Việt Nam so với các thị trường khác trong khu vực và trên thế giới. Tham gia hợp tác quốc tế đa phương giữa Ủy ban Chứng khoán các nước trong khuôn khổ Biên bản ghi nhớ đa phương của Tổ chức Quốc tế các Ủy ban Chứng khoán (IOSCO).


5.3. Khuyến nghị‌

Nếu như trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, vấn đề quy mô và thanh khoản được chú trong nhiều thì giai đoạn tiếp theo này, TTCK Việt Nam cần tập trung để phát triển chất lượng, đặc biệt là các vấn đề quản trị rủi ro, minh bạch thông tin và phát triển sản phẩm mới. Năm 2015 được xem là năm bản lề của tái cấu trúc toàn diện thị trường, bao gồm hợp nhất các Sở giao dịch, chuẩn bị triển khai thị trường phái sinh, phát triển các sản phẩm mang tính đòn bẩy cao, đẩy mạnh cổ phần hóa gắn với hoạt động niêm yết, chuẩn bị nền tảng công nghệ thông tin hiện đại...Những chuyển biến trên đây được xem như là bước đi đúng đắn và phù hợp với sự phát triển của TTCK Việt Nam cùng với các TTCK trên thế giới. Để thực hiện được những nhiệm vụ trên, các cơ quan ban ngành, các công ty chứng khoán, các doanh nghiệp, nhà đầu tư...cần phải nỗ lực để thay đổi, hoàn thiện và phát triển. Tác giả xin đưa ra một số khuyến nghị dựa theo kết quả nghiên cứu định lượng và định tính ở các chương trước như sau:


5.3.1. Một số khuyến nghị về chính sách kinh tế vĩ mô


Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố kinh tế vĩ mô thật sự có tác động đến thị trường chứng khoán, trong đó lạm phát và cung tiền là hai yếu tố tác động rò rệt nhất đến chỉ số giá chứng khoán. Do đó việc ban hành các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô phù hợp và hiệu quả của Chính phủ sẽ là nền tảng để phát triển thị trường chứng khoán, và thị

trường chứng khoán sẽ là bàn đạp để nền kinh tế Việt Nam hòa nhập với nền kinh tế thế giới. Từ đó, Chính phủ cần quan tâm đến cách điều hành những chính sách như:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định


Tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến chỉ số giá chứng khoán VN-Index - 8

Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và lành mạnh là điều kiện tiên quyết để thực hiện các giải pháp phát triển TTCK. Các nhà hoạch định chính sách nên định hướng phát triển nền kinh tế bền vững, ổn định và dài hạn. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý điều hành theo hướng kinh tế thị trường, hạn chế can thiệp bằng những biện pháp hành chính.

Kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải để tạo điều kiện phát triển kinh tế


Từ kết quả nghiên cứu có thể thấy trong giai đoạn 2006 – 2015, sự biến động thất thường của lạm phát đã có tác động đáng kể đến TTCK, và những biểu hiện trên TTCK chính là thể hiện những bất ổn trong nền kinh tế. Vì vậy, nhiệm vụ kiểm soát lạm phát luôn được xem là nhiệm vụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Vẫn biết rằng tăng trưởng thường song hành cùng với lạm phát, tuy nhiên lạm phát quá cao tại Việt Nam như các năm 2008, 2010, 2011 (lạm phát lên đến 2 con số) đã gây ra những khó khăn cho nền kinh tế, và tăng trưởng cũng không tăng cao như kỳ vọng. Hiện nay Chính phủ đã kiểm soát tốt tình trạng lạm phát cao và đưa về mức lạm phát thấp, lạm phát các năm 2013 và 2014 lần lượt là 6,6% và 4,09%, và năm 2015 lạm phát chỉ ở mức là 0,63% so với năm 2014 – thấp nhất 14 năm trở lại đây. Tuy nhiên, duy trì mức lạm phát thấp thì nền kinh tế có thể tăng trưởng dưới mức tiềm năng, tương lai sẽ gây mất cân bằng cung - cầu hàng hóa và tạo ra lạm phát do thiếu nguồn cung, từ đó làm cho các hoạt động kinh tế ngưng trệ theo. Ngoài ra, lạm phát thấp ảnh hưởng đến thu ngân sách, Chính phủ sẽ thiếu hụt tiền cho hoạt động đầu tư, trả nợ và thực hiện các nhiệm vụ cải cách kinh tế - xã hội khác. Vì vậy, để thực hiện kiểm soát tốt lạm phát và tăng trưởng kinh tế như kỳ vọng cần thực hiện tốt một số nội dung như:

Thứ nhất, thực hiện kiểm soát lạm phát cần đặt trong mối tương quan với các chính sách điều hành kinh tế khác. Đồng thời, tạo sự tăng trưởng bền vững và ổn định kinh tế vĩ mô để làm cơ sở chống lạm phát cao.

Thứ hai, thực hiện chương trình lạm phát mục tiêu như các nước trên thế giới đang

áp dụng, lúc này NHNN sẽ ấn định một mức lạm phát cụ thể trong trung hạn, các nước phát triển đang ấn định mức lạm phát 2 – 3%, tại Việt Nam nên ấn định mức cao hơn 5 – 6% để đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện tại. Để thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu, Việt Nam cần chuẩn bị một số điều kiện sau:

- Xây dựng bộ dữ liệu về các biến số kinh tế vĩ mô, mô hình dự báo, dự đoán tình hình kinh tế vĩ mô, hoạch định các chính sách để đối phó với rủi ro hệ thống.

- Xây dựng hệ thống tài chính lành mạnh, nâng cao năng lực tài chính và chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng, sử dụng hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ.

- Ngân hàng nhà nước phải độc lập: chủ động sử dụng công cụ chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát, đảm bảo an toàn và tự chủ trong công việc của Ban lãnh đạo NHNN, phối hợp linh hoạt và chặt chẽ với các chính sách tài khóa.

- Cơ cấu kinh tế phù hợp với nguyên tắc: kiểm soát giá cả một số các mặt hàng thiết yếu, chống độc quyền, lũng đoạn thị trường, nền kinh tế không quá nhạy với diễn biến giá cả và tỷ giá.

Tóm lại, với chính sách lạm phát mục tiêu, có thể coi đây là cam kết duy trì ổn định giá cả trong trung và dài hạn, tạo niềm tin cho người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức đầu tư trong và ngoài nước đối với chính sách tiền tệ.

Điều hành tỷ giá thận trọng và ổn định

Chính sách tỷ giá sẽ có tác động khác nhau đến các chủ thể trong nền kinh tế, vì vậy khi đưa ra bất kỳ quyết định nào cũng cần đặt trong mối tương quan với các biến số vĩ mô khác của nền kinh tế nhằm đảm bảo sự phù hợp trong quá trình điều chỉnh, đáp ứng sự cân bằng trong tổng thể của nền kinh tế. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, NHNN cần chú trọng một số vấn đề sau:

- Điều hành chính sách tỷ giá cần xem xét giá trị đồng tiền của các nước mà Việt Nam có tỷ trọng thương mại lớn, nếu đồng tiền những nước này mất giá mạnh so với USD thì hoạt động xuất khẩu của chúng ta sẽ ảnh hưởng nếu như tỷ giá VND/USD không thay đổi hoặc giảm xuống.

- Khi sử dụng công cụ tỷ giá để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu hay nhập khẩu phải

xem xét nhiều yếu tố như: xem xét khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam một cách toàn diện, phân tích tác động của việc tăng tỷ giá tới hoạt động nhập khẩu, xem xét mức độ đóng góp cho tăng trưởng kinh tế của chính sách và những hệ quả đi kèm.

- Việc điều chỉnh tỷ giá nên đi theo lộ trình cam kết, những điều chỉnh tạo ra “cú sốc” cho thị trường có thể làm tăng nghĩa vụ nợ nước ngoài của Chính phủ cũng như doanh nghiệp và tạo ra làn sóng di chuyển nguồn vốn không mong muốn trên thị trường tài chính.

Chính sách cung tiền tăng trưởng phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế và lạm phát mục tiêu

Khi thực hiện chính sách cung tiền cần hướng tới mục tiêu cụ thể và phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Vì mỗi động thái nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ đều ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản trên TTCK nên NHNN cần hết sức thận trọng để tránh những “biến cố” bất ngờ cho nhà đầu tư và thị trường.

Công cụ nghiệp vụ thị trường mở (OMO) là công cụ điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông NHNN thông qua việc mua bán tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ cũng như các phương tiện có giá khác. Để sử dụng công cụ này một cách hiệu quả và linh hoạt, các cơ quan ban ngành cần hoàn thiện hành lang pháp lý, phát triển thêm các công cụ , kết hợp hài hòa giữa công cụ dự trữ bắt buộc và OMO để kiểm soát lượng tiền lưu thông.

Chính sách lãi suất ưu tiên kiểm soát lạm phát và hỗ trợ doanh nghiệp


Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn kiểm soát và ổn định lạm phát nên việc thực hiện chính sách tiền tệ, cụ thể lãi suất cần ưu tiên nhiệm vụ hàng đầu là kiểm soát lạm phát.

Để hỗ trợ doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế hiện nay, giải pháp hạ lãi suất được xem như là giải pháp hiệu quả. Tuy nhiên hạ lãi suất đồng nghĩa với nới lỏng chính sách tiền tệ và đồng thời tạo áp lực tăng tỷ giá. Trong khi đó, tỷ giá tăng sẽ tạo áp lực hoạt động nhập khẩu (chi phí đầu vào của các doanh nghiệp sử dụng hàng hóa nhập khẩu tăng cao) và vô tình sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, để thực

hiện tốt các mục tiêu đã đề ra, các cơ quan ban ngành phải tính toán cân nhắc lựa chọn biện pháp hữu hiệu hơn để hỗ trợ doanh nghiệp.


5.3.2. Khuyến nghị trong nội tại TTCK Việt Nam‌

5.3.2.1. Nâng cao chất lượng hàng hóa và đa dạng hóa sản phẩm cho TTCK‌

- Giám sát xử lý các doanh nghiệp chào bán cổ phiếu ra công chúng không đưa cổ phiếu vào giao dịch trong vòng 1 năm

Thủ tướng Chính phủ đã liên tiếp ban hành các Nghị định 108/2013/NĐ-CP và quyết định 51/2014/QĐ-TTg để buộc những DNNN sau khi phát hành chứng khoán lần đầu phải lên sàn giao dịch trong thời gian tối đa là 1 năm. Tuy nhiên có những vấn đề cần xem xét đó là khi DNNN thực hiện IPO chịu sự điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật quy định về cổ phần hóa chứ không phải hệ thống pháp luật về chứng khoán, nên áp dụng chế tài quy định tại Nghị định 108/2013 là không phù hợp, một vấn đề khác nữa là nếu các DNNN sau khi tiến hành IPO không đáp ứng được tiêu chuẩn của công ty đại chúng như quy định thì họ không cần phải đăng ký giao dịch. Như vậy, bên cạnh việc giám sát xử lý các doanh nghiệp vi phạm, các cơ quan quản lý nên có kiến nghị để sửa đổi, bổ sung các biện pháp chế tài hợp lý để các DNNN không thể né tránh việc niêm yết trên các sàn chứng khoán.

- Xây dựng cơ chế và lộ trình thực hiện Quản trị rủi ro cho các công ty niêm yết


Nhằm hướng tới phát triển bền vững cho doanh nghiệp và cho thị trường, công tác quản trị rủi ro cho các doanh nghiệp cũng cần được chú trọng. Quản trị rủi ro được xem như là phương pháp đo lường, quản lý các rủi ro trong hoạt động của các công ty niêm yết, những chủ thể này vốn hoạt động trong nhiều ngành nghề, thường xuyên phải đối mặt với nhiều rủi ro khác nhau. Trên thực tế, các công ty niêm yết thực hiện huy động vốn qua nhiều kênh khác nhau, đặc biệt là từ TTCK, và trong quá trình này không thể tránh khỏi mâu thuẫn lợi ích giữa người sở hữu (các cổ đông) và người quản lý điều hành. Vì vậy, việc nhận diện và xây dựng mô hình QTRR tốt giúp các công ty hạn chế được các

tình huống bất ngờ, chuẩn bị kịch bản đối phó với rủi ro tốt hơn. Do đó, các công ty niêm yết đã rất nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng công bố thông tin và QTRR, nhưng trong quá trình thực hiện các công ty vẫn gặp khó khăn, vướng mắc. Do đó các công ty niêm yết nên xây dựng và tăng cường tính hiệu quả của hệ thống QTRR doanh nghiệp, không xây dựng theo kiểu đối phó, tùy theo ngành nghề, quy mô và nguồn nhân lực mà công ty phát triển cho mình một chiến lược QTRR phù hợp. Trong quá trình hoạt động phải giám sát hoạt động quản trị rủi ro thường xuyên, có các chương trình đánh giá định kỳ, thực hiện các chương trình đào tạo về kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ và kế toán...

- Tạo điều kiện cho TTCK phái sinh phát triển


Từ năm 2016, Việt Nam sẽ có TTCK phái sinh, đây được xem là bước ngoặc quan trọng để nâng hạng cho TTCK lên một vị thế mới, tăng thu hút dòng vốn đầu tư từ các tổ chức đầu tư lớn. Để TTCK phái sinh hoạt động hiệu quả, các đơn vị liên quan cần tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu:

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý góp phần tạo sự lành mạnh cho thị trường tài chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành và phát triển của thị trường phái sinh. Do tính chất phức tạp của các sản phẩm phái sinh nên ngoài những quy định về tổ chức hoạt động thị trường phái sinh, các cơ quan cũng nên giám sát chặt chẽ và định hướng cụ thể cho thị trường này.

Đầu tư xây dựng nền tảng công nghệ thông tin hiện đại nhằm đáp ứng kịp thời các giao dịch chứng khoán phái sinh.

Đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và trình độ hiểu biết về sản phẩm phái sinh.


5.3.2.2. Kích cầu và khơi thông nguồn vốn‌


Triển khai nâng hạng TTCK Việt Nam trên bảng xếp hạng MSCI và S&P DJ


Các tiêu chí chung trong phân loại TTCK là quy mô thị trường, thanh khoản, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, khả năng tự do chuyển đổi ngoại tệ, phương thức thanh toán sau giao dịch, quy định về giao dịch bán khống và cho vay chứng khoán.

Những thước đo này là cơ sở để nhà đầu tư nước ngoài đưa ra quyết định đầu tư vào thị

trường. TTCK Việt Nam đang được xếp vào nhóm thị trường cận biên, và được đánh giá là có tiềm năng để xếp vào nhóm các thị trường mới nổi của bảng phân hạng MSCI. Theo UBCKNN, trong số các tổ chức xếp hạng TTCK, MSCI được đánh giá là tổ chức có uy tín và sự ảnh hưởng lớn nhất trong việc xây dựng các tiêu chí phân hạng thị trường nhằm tạo công cụ hỗ trợ cho các nhà đầu tư vào TTCK. Những tiêu chí do MSCI đưa ra là phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, cho nên nếu thỏa mãn những tiêu chí cụ thể của MSCI thì cũng sẽ thỏa mãn những tiêu chí của S&P DJ. Do đó, việc nâng hạng thị trường theo phân loại MSCI là định hướng thích hợp của TTCK Việt Nam. Nếu được nâng hạng, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội phát triển nhờ thu hút được lượng vốn từ các nhà đầu tư quốc tế. Đứng trước cơ hội phát triển này, chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để đạt được những tiêu chí xếp hạng của MSCI:

Về quy mô và thanh khoản thị trường:


Hiện nay, theo thống kê tỷ lệ vốn hóa của các công ty lớn nhất tại Việt Nam mới chỉ đóng góp với con số khá khiêm tốn tại một số rổ chỉ số thị trường cận biên (2,54% trong rổ chỉ số S&P Frontier Broad Market Index, 4,77% trong rổ chỉ số DJ Frontier Total Stock Market, 3,73% trong rổ chỉ số MSCI Frontier Markets Index). Về tỷ lệ vốn hóa TTCK trên GDP, tiêu chuẩn đối với bộ chỉ số EM là 50%, trong khi tỷ lệ này của Việt Nam chỉ mới hơn 30%. Trường hợp TTCK Việt Nam được nâng hạng, tỷ lệ này sẽ còn nhỏ hơn rất nhiều. Do đó, để thực hiện công tác nâng hạng một cách hiệu quả, cần tích cực đưa các cổ phiếu các công ty có giá trị vốn hóa lớn lên niêm yết để tăng giá trị vốn hóa của thị trường.

Vì vậy, chúng ta cần phát triển những công ty đại chúng lớn có tầm vóc trong khu vực và thế giới. Số lượng doanh nghiệp của Việt Nam đang ngày càng tăng lên và góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, số doanh nghiệp quy mô lớn chỉ chiếm khoảng 2%, số lượng doanh nghiệp quy mô vừa cũng có tỷ lệ tương ứng, và còn lại khoảng 96% là quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Chúng ta đang tạo điều kiện cho doanh nghiệp mới phát triển, đang từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, nhưng chưa có sự đầu tư hợp lý cho các doanh nghiệp quy mô lớn. Xu hướng thiếu doanh nghiệp quy mô lớn này ngày càng gia tăng xét về tiêu chí vốn và lao động.

Thiếu vắng DN lớn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ảnh hưởng rất lớn đến tiềm năng phát triển và vị thế của TTCK Việt Nam trên thế giới. Nguyên nhân vì đâu mà các DN mãi chưa chịu “lớn”? Hiện nay có thể thấy các thể chế hỗ trợ thị trường hoạt động kém hiệu quả, các giải pháp chính sách để nâng cao năng lực cạnh tranh và hỗ trợ phát triển DN còn ít, các chính sách hỗ trợ dường như chỉ mới tập trung ở việc đăng ký kinh doanh, tạo điều kiện khởi nghiệp chứ chưa phải dành cho sự tăng trưởng của DN. Thậm chí có nhiều chính sách ưu đãi chỉ dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên các DN này cũng chưa có đủ động lực để lớn hơn. Bên cạnh đó là những hạn chế về nguồn nhân sự cấp cao, trình độ công nghệ thấp, tiếp cận vốn tín dụng dài hạn khó khăn...

Để Việt Nam có thêm nhiều DN lớn cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm như: Đổi mới thể chế, tạo điều kiện hỗ trợ DN phát triển với tiêu chí không chú trọng tăng nhanh số lượng, mà tập trung hơn về chất lượng tăng trưởng bền vững, cơ cấu DN hợp lý. Ban hành quy định về công nghiệp hỗ trợ để có giải pháp đột phá ở một số ngành, sản phẩm trọng điểm, tạo điều kiện cho khu vực tư nhân. Phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, thành lập các cơ sở đào tạo bài bản về nhân lực cấp cao, tăng cường phối hợp đào tạo với các chuyên gia trên thế giới về nhiều lĩnh vực. Nâng cao năng lực cán bộ quản lý nhà nước trong thiết kế chính sách, quy hoạch và thực hiện phát triển kinh tế, thực thi chính sách. Thúc đẩy các hoạt động mua bán, sáp nhập, tạo điều kiện hình thành những DN lớn và phát triển bền vững.

Về khả năng tiếp cận thị trường


Thị trường chứng khoán mới nổi đòi hỏi độ mở lớn của thị trường đối với sở hữu nước ngoài, và sự hiện diện của các tổ chức đầu tư nước ngoài sẽ góp phần làm thị trường chứng khoán phát triển và minh bạch hơn. Hiện nay theo QĐ 55/2009 quy định tỷ lệ sở hữu của khối ngoại trên TTCK chỉ được nắm giữ 49% tổng số cổ phần lưu hành của công ty đại chúng, tuy nhiên theo Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư 2014 quy định một công ty có vốn đầu tư nước ngoài được sở hữu 51% vốn điều lệ của công ty đại chúng gây ra sự khó hiểu cho nhà đầu tư. Vì vậy, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần đưa ra tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài cụ thể hơn và đồng thời xử lý dứt điểm về việc tăng tỷ lệ sở hữu cho khối ngoại có thể lên 60 – 70% như các nước trong khu vực.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 13/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí