Sự điều chỉnh pháp luật về thị trường mua bán, sáp nhập doanh nghiệp - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam - 15

Nam hiện nay xét cả về quy mô, nguồn nhân lực, trình độ công nghệ và quản lý chưa đủ khả năng hoạt động trên các lĩnh vực dịch vụ tài chính mới. Từ đó sẽ xuất hiện nhu cầu liên minh hay sáp nhập các ngân hàng với nhau, hoặc sáp nhập với các ngân hàng lớn nhằm tăng cường năng lực chiếm lĩnh thị phần, tăng lợi nhuận. Còn các ngân hàng lớn, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài, muốn gia nhập thị trường hoặc mở rộng thị phần bằng cách nhanh nhất sẽ cần đến M&A. M&A là chiến lược kinh doanh ngắn nhất để đạt hiệu quả cao và cũng là phương thức đầu tư ít tốn kém nhất. Ngoài ra, M&A sẽ là mục tiêu của các công ty chứng khoán khi thị trường niêm yết hiện đang trong thời kỳ điều chỉnh và các công ty chứng khoán không còn thu được những khoản lợi nhuận lớn như những năm trước. Các công ty này sẽ chuyển hướng tập trung tài chính, nguồn nhân lực sang thực hiện hoạt động này.

Như vậy, với việc ra đời Nghị định về M&A có liên quan đến yếu tố nước ngoài, cũng như hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của Việt Nam theo cam kết gia nhập WTO sẽ giúp cho các hoạt động M&A tại Việt Nam phát triển hơn nữa trong những năm tới đây. Việt Nam sẽ là điểm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và M&A sẽ là phương thức nhanh nhất và tiết kiệm nhất cho các nhà đầu tư.

3.2.3. Hướng hoàn thiện pháp luật về M&A

3.2.3.1. Đảm bảo môi trường kinh tế-chính trị-xã hội ổn định

Một môi trường pháp lý đồng bộ, lành mạnh vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các DN tiến hành hoạt động kinh doanh vừa kiểm soát các hoạt động kinh tế theo hướng không phải chỉ chú ý đến kết quả và hiệu quả riêng, mà phải đảm bảo lợi ích kinh tế của mọi thành viên trong xã hội. Hệ thống pháp luật hoàn thiện, không thiên vị là một trong những tiền đề ngoài kinh tế của kinh doanh. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi pháp luật trong nền kinh tế có ảnh hường lớn đến việc hoạch định, tổ chức thực hiện chiến lược kinh

doanh của DN. Do đó, đòi hỏi các DN phải nắm vững pháp luật nước sở tại và thông lệ quốc tế để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trong khuôn khổ của hành lang pháp lý. Có như vậy mới đảm bảo hiệu quả kinh tế.

Trong thời gian qua, môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam chưa thực sự ổn định, nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp, khung thể chế đảm bảo cho hoạt động của các thành phần kinh tế chưa đồng bộ. Các chủ thể kinh tế còn manh mún, sự can thiệp hành chính vào hoạt động các DN còn lớn, quyền lợi của các DN Việt Nam chưa được đảm bảo bằng pháp luật, đặc biệt khi xảy ra tranh chấp. Nhiều quy định, chính sách chưa phù hợp với nguyên tắc kinh tế thị trường và các thông lệ chuẩn mực quốc tế, nhiều nghiệp vụ có tác dụng giảm thiểu và phân tán rủi ro chưa được đưa vào áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, nhu cầu cải cách, hội nhập đã và đang trở thành động lực cấp thiết để đẩy mạnh những thay đổi về môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các DN hiệu quả và an toàn hệ thống pháp luật phải không ngừng cải thiện, tạo môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch, tiến tới phù hợp với các thông lệ quốc tế. Chính phủ xem xét chỉ đạo các cơ quan chính phủ, các bộ ban hành những văn bản để đảm bảo quyền và lợi ích của các DN Việt Nam.

3.2.3.2. Tăng kiểm soát thông tin cũng như tính minh bạch hoá của thông tin

Việt Nam cần phải xây dựng được kênh kiểm soát thông tin, tính minh bạch hoá trong hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động M&A nói riêng. Bởi vì, trong hoạt động M&A, thông tin về giá cả, thương hiệu, thị trường, thị phần, quản trị, con người... là vô cùng quan trọng cho cả bên mua, bên bán. Nếu thông tin không được kiểm soát, không minh bạch thì có thể gây nhiều thiệt hại cho cả bên mua, bên bán, đồng thời ảnh hưởng nhiều đến các thị trường khác như thị trường hàng hóa, chứng khoán, ngân hàng. Giống như

các thị trường khác, thị trường M&A hoạt động có tính dây truyền, nếu một vụ M&A lớn diễn ra không thành công hoặc có yếu tố không minh bạch thì hậu quả cho nền kinh tế là rất lớn vì có thể cổ phiểu, trái phiếu, hoạt động kinh doanh, đầu tư... của DN đó nói riêng và các DN liên quan bị ảnh hưởng theo. Hơn nữa, M&A có thể dẫn đến độc quyền, do đó rất cần sự kiểm soát của nhà nước để không ảnh hưởng đến nền kinh tế, người tiêu dùng. Để có thể kiểm soát được thông tin, thị trường được minh bạch hóa hơn thì các cơ quan quản lý nhà nước nên có các biện pháp quản lý chặt chẽ như: Xây dựng các chế tài phạt nghiêm khắc (gấp hai hay ba lần lợi nhuận mà DN đạt được từ việc không minh bạch, đưa nguồn tin sai…) đối với các DN không thực hiện đúng quy định; Xây dựng danh mục định mức tín nhiệm cho các DN ở Việt Nam, chính điều này sẽ tự kích thích các DN phải thay đổi cách thức kinh doanh

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Đặc biệt, trong việc kiểm soát các thông tin về tài chính, bộ tài chính nên ban hành các văn bản pháp luật quy định chặt chẽ và thống nhất nhằm tránh tình trạng các DN sử dụng hai hệ thống sổ sách kế toán. Một được hạch toán dựa trên các hoá đơn chứng từ hợp pháp và đầy đủ, và là cơ sở để soạn lập báo cáo thuế và quyết toán cuối năm. Các số liệu này cũng được dùng để đưa lên là các thông tin chính thức khi công bố ra bên ngoài. Một hệ thống sổ sách khác được lập để theo dõi nội bộ trong đó có các khoản doanh thu và chi phí vì nhiều lý do mà không có hoá đơn chứng từ hợp lệ nên khi định giá DN trong hoạt động M&A sẽ không còn chính xác và đúng giá trị thực của DN đó.

3.2.3.3. Xây dựng một hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.

Sự điều chỉnh pháp luật về thị trường mua bán, sáp nhập doanh nghiệp - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam - 15

Đây là biện pháp cần thiết và quan trọng nhất hiện nay của nhà nước. Khung pháp lý về hoạt động M&A cần chuyên biệt, không dựa quá nhiều trên

các khung pháp lý dành cho cổ phần hóa, phát hành và niêm yết chứng khoán. Hiện nay, các quy định liên quan đến hoạt động M&A mới chỉ dừng lại ở việc xác lập về mặt hình thức của hoạt động M&A, trong khi đó, các vấn đề về mặt nội dung cần phải được quy định đầy đủ hơn nữa bởi vì hoạt động M&A còn có nhiều nội dung liên quan đến định giá DN, giải quyết các vấn đề tài chính, cổ phần, cổ phiếu, người lao động, thuế, phí... của DN trong và sau M&A. Khung pháp lý này sẽ tạo điều kiện để xác lập giao dịch, địa vị của bên mua, bên bán, hậu quả pháp lý sau khi kết thúc giao dịch. Do đó nếu muốn phát triển hoạt động M&A, Việt Nam phải hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động M&A.

Trước mắt văn bản hướng dẫn việc thực hiện hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp chưa cần đưa ra dưới hình thức là văn bản Luật mà có thể là Nghị định hướng dẫn thực hiện, rồi sau đó dần bổ sung và phát triển lên thành Luật. Bởi vì đây là một hoạt động rất phức tạp và chỉ mới được tiếp nhận vào nền kinh tế nước ta và chắc chắn là nó sẽ có mang những đặc tính riêng của nền kinh tế Việt Nam cho nên không thể quá dựa vào văn bản Luật hướng dẫn việc thực hiện hoạt động này ở các nước khác để xây dựng thành văn bản Luật cho Việt Nam. Để ban hành văn bản pháp luật cho hoạt động mua lại, sáp nhập ở Việt Nam thì cần tổ chức nhiều cuộc hội thảo lấy ý kiến từ các nhóm đối tượng như: các công ty đang thực hiện tư vấn cho hoạt động M&A, các nhà chuyên gia nghiên cứu kinh tế trong và ngoài nước và các doanh nghiệp đã và đang có ý định thực hiện M&A trong tương lai.

Văn bản pháp luật qui định đối với hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp sẽ qui định những nội dung cụ thể như:

Phân công cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động này và qui định trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý đó;

Cách nhận thức về hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp trong luật và nền kinh tế Việt Nam;

Các hình thức thực hiện hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp;

Các tổ chức, cá nhân nào có liên quan đến hoạt động này và trách nhiệm, quyền lợi của các tổ chức, các nhân có liên quan đến quá trình thực hiện M&A;

Thủ tục và trình tự thực hiện công việc này; qui định về vấn đề công bố các thông tin có liên quan đến tổ chức cá nhân có thực hiện hoạt động M&A này với các thông tin của vụ giao dịch đó với từng đối tượng khác nhau và thị trường, qui định thời gian công bố thông tin;

Những qui định đối với vấn đề định giá giá trị doanh nghiệp để đáp ứng cho yêu cầu mua lại, sáp nhập doanh nghiệp;

Các hình thức hoạt động M&A bị cấm thực hiện.

Qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới, trên cơ sở đối chiếu, so sánh với cơ chế và pháp luật về kiểm soát hoạt động M&A của Việt Nam có thể rút ra một số phương hướng hoàn thiện khung pháp lý về M&A tại Việt Nam như sau:

Thứ nhất, Xác định rõ cơ quan quản lý trực tiếp đối với hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp.

Thông thường hoạt động mua lại, sáp nhập trên thế giới được pháp luật giám sát ở góc độ cạnh tranh nên cơ quan quản lý cạnh tranh trên thị trường là cơ quan tiến hành quản lý và kiểm soát hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Như vậy để phù hợp với thông lệ quốc tế thì cơ quan quản lý cạnh tranh (Cục quản lý cạnh tranh) là cơ quan thích hợp nhất để giám sát hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp.

Cục quản lý cạnh tranh chỉ quản lý các vụ giao dịch mua lại, sáp nhập có giá trị lớn, có khả năng gây tác động đến thị trường. Đối với các giao dịch

không thuộc thẩm quyền quản lý của Cục quản lý cạnh tranh thì sẽ báo cáo với cơ quan quản lý doanh nghiệp ở địa phương cùng lúc với việc xin cấp giấy phép kinh doanh mới và trả lại giấy phép kinh doanh (nếu có). Nên qui định mức giới hạn về giá trị của vụ giao dịch để phân chia trách nhiệm quản lý giữ Cục quản lý cạnh tranh và cơ quan quản lý hoạt động này ở địa phương. Mức giới hạn giá trị giao dịch có thể qui định dựa vào giá trị của hợp đồng giao dịch mua lại doanh nghiệp hoặc giá trị tổng hợp các các doanh nghiệp sau khi sáp nhập. Không nên qui định mức giới hạn quản lý các vụ mua lại, sáp nhập doanh nghiệp theo thị phần có liên quan vì để đánh giá sự ảnh hưởng của doanh nghiệp đến thị phần chung thị trường đòi hỏi có sự điều tra kỹ, đồng thời một nguyên tắc trong hoạt động M&A là 1+1 >2, như vậy về mặt lý thuyết khi hai công ty kết hợp lại với nhau, mặc dù hiện tại tổng thị phần của hai công ty cộng lại chưa đến ngưỡng thuộc sự quản lý nhưng rất có khả năng đạt được điều này ngay sau đó nếu quá trình kết hợp diễn ra suông sẻ và thành công.

Trách nhiệm quản lý của Cục quản lý cạnh tranh đối với các giao dịch mua lại, sáp nhập doanh nghiệp bao gồm các công việc:

Yêu cầu các doanh nghiệp có các giao dịch mua lại, sáp nhập doanh nghiệp thuộc trách nhiệm quản lý thông báo về dự định thực hiện giao dịch và hợp đồng thỏa thuận giữa các bên doanh nghiệp

Báo cáo kết quả giao dịch, ra quyết định cho phép thực hiện giao dịch nếu thấy vụ giao dịch không gây những tác động tiêu cực cho thị trường hoặc không cho phép thực hiện giao dịch - nhưng phải giải thích rõ lý do.

Theo dõi tiến trình thực hiện giao dịch sau khi đã cấp phép và kiểm tra các điều kiện, thủ tục để thực hiện giao dịch.

Cần qui định rõ về thời gian báo cáo với cơ quan quản lý và thời gian trả lời của cơ quan quản lý đối với doanh nghiệp.

Theo LCT năm 2005 và LDN năm 2005, việc kiểm soát các hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại giữa các DN có sự tham gia của các cơ quan là các cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan đăng ký kinh doanh. Khi tiến hành hoạt động M&A sẽ có hai tình huống xảy ra về thủ tục. Nếu hoạt động M&A nằm ở diện được phép thì chỉ phải làm các thủ tục về việc đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh mà không phải thực hiện bất cứ thủ tục gì tại cơ quan cạnh tranh. Còn nếu hoạt động M&A thuộc diện cần thông báo cần kiểm soát thì trước khi tiến hành các thủ tục tại cơ quan đăng ký kinh doanh, các DN tham gia tập trung phải làm thủ tục thông báo tại cơ quan quản lý cạnh tranh. Chỉ khi nào có trả lời của cơ quan này khẳng định hoạt động M&A không thuộc trường hợp bị cấm thì các DN mới được tiến hành các thủ tục về sáp nhập, hợp nhất, mua lại theo LDN.

Để các cơ quan nói trên thực hiện tốt chức năng của mình, đòi hỏi phải giải quyết được những vấn đề sau:

Để xác định các trường hợp M&A cụ thể, cần kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm được thực hiện chủ yếu dựa vào việc xác định chính xác thị phần kết hợp của các DN tham gia. Muốn thực hiện hiệu quả, đòi hỏi khả năng dự báo của các cơ quan hữu trách về tình hình và mức độ tập trung của các thị trường cụ thể. Nói cách khác, các cơ quan có thẩm quyền cần có những số liệu thực tế về các thị trường có khả năng xảy ra những trường hợp M&A cần kiểm soát hoặc bị cấm đoán. Khi có hành vi xảy ra, các cơ quan có thẩm quyền luôn ở trong trạng thái chủ động thay vì chờ đợi các DN khác khiếu nại rồi mới điều tra.

Thẩm quyền của các cơ quan cạnh tranh, cơ quan đăng ký kinh doanh được thực hiện trong những công đoạn pháp lý khác nhau của quá trình

tiến hành hoạt động M&A. Vì vậy, sự phối hợp trong hoạt động giữa các cơ quan này là hết sức cần thiết để đảm bảo hiệu quả của việc kiểm soát hoạt động M&A.

Những hành vi trong hoạt động M&A vi phạm pháp luật cạnh tranh, suy cho cùng là những trường hợp DN vi phạm đã hoàn tất việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại cả về phương diện thực tế lẫn pháp lý. Do đó, để phát hiện sự vi phạm đòi hỏi các cơ quan đăng ký kinh doanh kiểm soát được tình hình trong địa bàn mình quản lý bằng các số liệu thống kê và phải công khai các số liệu này.

Thứ hai, pháp luật về kiểm soát hoạt động M&A của Việt Nam đã quy định (đã có những quy định cụ thể trong LCT năm 2005 và trong Nghị định Quy định chi tiết thi hành một số điều trong LCT, trong LDN năm 2005, LĐT năm 2005) và theo mô hình châu Âu - hướng đến hạn chế những tác động tiêu cực của kiểm soát hoạt động M&A. Việc khống chế, kiểm soát hoạt động M&A có vai trò đặc biệt quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế. Khi hội nhập, Việt Nam phải mở cửa cho các tập đoàn đa quốc gia vào. Với sức mạnh kinh tế vượt trội, các tập đoàn này có khả năng thôn tính các DN khác, nhất là các DN trong nước. Nếu hoạt động này không được kiểm soát sẽ gây lũng đoạn và khống chế thị trường ở mức độ cao. Tuy nhiên cần lưu ý là không nhất thiết phải thông qua tất cả các vụ M&A vì sẽ tạo gánh nặng không đáng có cho cơ quan quản lý.

Thứ ba, LCT năm 2004 đã sử dụng “ngưỡng thị phần” làm cơ sở phân loại hoạt động M&A và làm tiêu chí duy nhất để xác định khả năng gây hại của các trường hợp M&A. Câu hỏi đặt ra là thị phần DN (bao gồm cả thị phần hàng hoá, dịch vụ và thị phần kết hợp) sẽ được xác định như thế nào và thẩm định sự chính xác của chỉ tiêu này trên cơ sở khoa học nào? Kinh nghiệm của thế giới cho thấy có thể sử dụng một số tiêu chí khác để đánh giá hoạt động

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 15/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí