Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Vợ Chồng Ly Hôn

Ngoài ra luật HN&GĐ năm 1986 không dự liệu về hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân dẫn đến việc áp dụng chế độ tài sản chung của vợ chồng chưa được thống nhất và gặp nhiều khó khăn.

Luật HN&GĐ năm 2000 quy định rõ hơn về các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân: khi vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác (như vợ chồng tuổi già, mặc dù có mâu thuẫn sâu sắc, nhưng không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng và có yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân).... Còn về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Luật HN&GĐ năm 2000 cho phép hai vợ chồng tự thỏa thuận chia tài sản chung bằng văn bản hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết [46, Điều 29].

Như vậy, theo Luật HN&GĐ năm 2000 thì không nhất thiết mọi trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đều phải do Tòa án quyết định, mà trước hết sẽ do vợ chồng tự thỏa thuận chia bằng văn bản. Nếu không thỏa thuận được với nhau thì vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được pháp luật dự liệu hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người, còn phần tài sản còn lại không chia thì vẫn là thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Như vậy, vợ chồng có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia một phần hay toàn bộ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. [46, Điều 31], [5, Điều 8]. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP đã cụ thể hóa về hậu quả pháp lý liên quan tới chế độ tài sản của vợ chồng, sau khi đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. [5, Điều 8, Khoản 2]. Từ nội dung hướng dẫn này ta có thể hiểu sau khi chia tài sản chung thì mọi tài sản trong thời kỳ hôn nhân do hai bên tạo ra, do thu nhập hợp pháp,... đều là tài sản riêng của vợ chồng trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Nhưng chính điều này lại mâu thuẫn với Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng.

Nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của Nhà nước và của người thứ ba về tài sản liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, khoản 2 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 đã dự liệu:“Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận”[46, Điều 29, Khoản 2]. Cụ thể hóa vấn đề này Nghị định số 70/2001/NĐ-CP hướng dẫn có quy định người có quyền, lợi ích liên quan đến việc chia tài sản chung nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ về tài sản có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố việc chia tài sản chung đó là vô hiệu [5, Điều 11].

Từ những nội dung trên, ta có thể thấy quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đã tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân vợ, chồng có điều kiện tham gia các giao dịch dân sự riêng. Tuy nhiên, quy định về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân Luật HN&GĐ năm 2000 đã không dự liệu, trong khi đó Luật HN&GĐ năm 1986 đã quy định nguyên tắc chia như ly hôn [43, Điều 42]. Ngoài ra sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp này, “thời kỳ hôn nhân” vẫn tồn tại nên vẫn còn căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng. Nhưng theo hướng dẫn tại Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ- CP cũng như quy định tại Điều 29, Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2000 đã có sự mâu thuẫn với Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng. Ngoài ra pháp luật đã không quy định về nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân: nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau, nghĩa vụ nuôi dưỡng và chăm sóc con cái,....

2.3.2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn

Theo nguyên tắc chung, khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng chấm dứt. Các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng hoàn toàn chấm dứt khi vợ chồng ly hôn và tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia theo yêu cầu của các đương sự. Do nhiều nguyên nhân, yếu tố tác động mà những năm vừa qua ở nước ta các án kiện ly hôn gia tăng. Việc giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn luôn là loại việc khó khăn, phức tạp, có nhiều vướng mắc khi vợ chồng ly hôn. Trên nguyên tắc bảo

đảm quyền tự định đoạt của vợ chồng, Luật HN&GĐ luôn ưu tiên sự thỏa thuận của các bên, và chỉ khi vợ chồng không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết [46, Điều 95, Khoản 1].

Pháp luật quy định vợ chồng tự thỏa thuận với nhau về chia tài sản khi ly hôn vừa phù hợp với nguyện vọng của các bên, lại tạo điều kiện thuận lợi cho thi hành án sau này. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được với nhau thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng và những người có quyền, lợi ích liên quan đến tài sản của vợ chồng, Tòa án trước khi quyết định cần phải xác định đâu là tài sản chung của vợ chồng và ai là người có quyền, lợi ích liên quan đến tài sản của vợ chồng. Nguyên tắc giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng phải xem xét đến thu nhập thực tế của vợ, chồng, công sức đóng góp trong việc tạo dựng, quản lý tài sản chung; những tài sản nào chia được bằng hiện vật hoặc phải thanh toán bằng tiền; điều kiện, hoàn cảnh, nghề nghiệp của vợ, chồng khi ly hôn; hai vợ chồng sống riêng hoặc cùng chung sống với gia đình bên nhà chồng (vợ)... khi chia, Tòa án áp dụng các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng [46, Điều 95-99].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Nếu có tranh chấp về tài sản riêng của vợ chồng, bên nào cho rằng đó là tài sản riêng của mình thì phải có nghĩa vụ chứng minh, nếu không có chứng cứ chứng minh tài sản đang có tranh chấp là tài sản riêng thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng [46, Điều 27, Khoản 3].

Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về các nguyên tắc chung về việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, đặc biệt đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng. Về chia tài sản chung vợ chồng cho thấy khi chia tài sản đối với các loại tài sản là bất động sản (như nhà ở, quyền sử dụng đất) thường gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Vì những tài sản này thường có giá trị lớn, khi tình cảm yêu thương gắn bó giữa vợ chồng mặn nồng thì không sao, nhưng khi ly hôn thì tình cảm không còn, lợi ích về tài sản được đề cao nên giữa họ thường có tranh chấp với nhau về tài sản rất gay gắt, nhiều vụ việc kéo dài do đương sự khiếu kiện. Chính vì vậy, Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định cụ thể về các trường hợp chia tài sản chung của vợ, chồng là nhà ở, quyền sử dụng đất và trong các trường hợp mà vợ chồng còn sống chung với gia đình bên cha mẹ chồng (hoặc cha mẹ vợ) [46, Điều 96-99].

Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo Pháp luật Việt Nam - 9

Theo đó, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP đã quy định khá cụ thể về việc chia tài sản là nhà ở hoặc quyền sử dụng đất thuộc tài sản chung của vợ chồng hoặc thuộc khối tài sản của gia đình (bên nhà chồng hoặc bên nhà vợ)... [5, Điều 24-29]. Tùy từng vụ việc cụ thể, Tòa án sẽ xem xét và quyết định việc chia tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng của các đương sự, nhất là quyền lợi chính đáng của người vợ và con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân.

Về vấn đề giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn đối với nhà ở thuộc sở hữu riêng của mỗi bên, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP đã chấp nhận bảo đảm quyền lưu cư của vợ, chồng: nếu như nhà riêng đó đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn bên vợ hoặc chồng sở hữu nhà có nghĩa vụ hỗ trợ cho bên kia tìm chỗ ở mới, nếu bên kia có khó khăn và không thể tìm được chỗ ở mới thì được lưu cư trong thời hạn 6 tháng để tìm chỗ ở khác [5, Điều 30, Khoản 1]. Quy định về bảo đảm quyền lưu cư của vợ, chồng này là quy định mới và rất có ý nghĩa của Luật HN&GĐ năm 2000.

Một số vấn đề cần làm sáng tỏ về mặt lý thuyết và thực tiễn áp dụng luật để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng là:

Thứ nhất, cần phải xác định những tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác mà mỗi bên vợ, chồng có được kể từ khi vợ chồng có đơn yêu cầu ly hôn được Tòa án thu lý và giải quyết. Những tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời gian tòa án xét xử vụ kiện ly hôn và những tài sản mà vợ, chồng tạo ra trong thời gian phán quyết ly hôn của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật được coi là tài sản chung hay tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng. Theo nguyên tắc chung về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng, tất cả những tài sản do vợ, chồng tạo ra, những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; những tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung khi vợ chồng ly hôn mà bản án, quyết định ly hôn của Tòa án chưa có hiệu lực vẫn được tính là thuộc khối tài sản chung của vợ chồng do thời gian này vẫn thuộc “thời kỳ hôn nhân”.

Thứ hai, thực tế khi vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc, tình cảm yêu thương không còn, trước khi ly hôn vợ hoặc chồng thường có hành vi phá tán, giấu giếm tài sản, tiền bạc là tài sản chung của vợ chồng. Mặt khác, như trên đã phân tích, tài sản chung của vợ chồng vẫn (có thể) được xác lập khi vợ chồng đã nộp đơn ly hôn hoặc trong thời gian phán quyết ly hôn của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật. Vấn đề đặt ra là: làm thế nào để bảo đảm được khối tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn để phân chia theo yêu cầu của vợ chồng. Nếu không có biện pháp bảo đảm nào thì trước khi Tòa án giải quyết việc ly hôn, có thể vợ chồng đã thực hiện hành vi phá tán hoặc giấu giếm tài sản chung, sau khi có phán quyết ly hôn sẽ không còn tài sản chung để phân chia, không bảo đảm được quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, chồng cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của những người khác có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn.

Chính vì thực tiễn trên mà một giải pháp đã được pháp luật tố tụng của một số nước và hệ thống pháp luật ở nước ta dưới chế độ cũ dự liệu đó là: tính đến thời điểm vợ, chồng nộp đơn ly hôn tại Tòa án, họ phải có nghĩa vụ kê khai các tài sản thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng, Tòa án sẽ tạm thời “phân định” giao tài sản chung đó cho vợ, chồng quản lý. Như vậy, khi ly hôn, khối tài sản chung của vợ chồng được bảo đảm để chia khi vợ chồng có yêu cầu. Nên chăng, Luật HN&GĐ hoặc pháp luật tố tụng dân sự của Nhà nước ta cần dự liệu giải pháp này nhằm ngăn chặn các hành vi giấu giếm, phá tán tài sản chung của vợ chồng trước khi Tòa án giải quyết ly hôn [13, tr.195].

2.3.3. Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên chết trước

Quan hệ hôn nhân sẽ chấm dứt khi vợ, chồng chết hoặc khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng chết có hiệu lực pháp luật. Quan hệ hôn nhân chấm dứt, tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia theo yêu cầu của người chồng hoặc vợ còn sống hoặc của những người thừa kế của người vợ, chồng đã chết. Theo nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, trong đó có quan hệ về thừa kế tài sản của nhau giữa vợ chồng. Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định: “vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế”[46, Điều 31].

Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, phần tài sản của người vợ, chồng chết thì theo BLDS của Nhà nước ta quy định chia theo hai hình thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.

- Nếu như vợ hoặc chồng chết trước để lại di chúc định đoạt phần tài sản của mình thì di sản sẽ được thực hiện theo di chúc, trừ trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc [49, Điều 669]

- Nếu như vợ hoặc chồng chết trước không để lại di chúc hoặc di chúc không hợp pháp thì phần tài sản của vợ, chồng đã chết trong khối tài sản chung sẽ được chia cho những người thừa kế theo pháp luật của người chết. Người chồng, vợ còn sống được hưởng một suất thừa kế cùng với cha, mẹ và các con của người chết, vì những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau [49, Điều 674- 676].

Điều kiện để vợ, chồng được hưởng tài sản thừa kế của nhau theo luật định phải có quan hệ hôn nhân được thừa nhận. Cho đến nay, theo quy định của hệ thống pháp luật HN&GĐ, quan hệ vợ chồng được pháp luật thừa nhận bao gồm hôn nhân hợp pháp (có Giấy chứng nhận kết hôn, việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện kết hôn và thủ tục đăng ký kết hôn) và hôn nhân thực tế. Riêng đối với trường hợp vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống có quyền quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản ký di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản [46, Điều 31, Khoản 2].

Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định một vấn đề hạn chế quyền yêu cầu chia di sản thừa kế của những người thừa kế, đây là quy định mới xuất phát từ thực tiễn của đời sống xã hội, nhằm bảo vệ quyền lợi của vợ chồng và gia đình. Theo quy định này thì việc chia di sản thừa kế ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của một trong hai bên, gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà người thừa kế được hưởng nhưng chưa chia trong một thời gian nhất định [46, Điều 31, Khoản 3]. Quy định này dựa trên cơ sở bảo đảm ổn định cho cuộc sống của bên còn sống, cũng như của những thành viên gia đình mà người vợ, chồng trước khi chết phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng (cha, mẹ, các con của người chết) và việc chia di sản thừa kế ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của

họ. Hướng dẫn cụ thể hơn tại Điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 có quy định chi tiết hơn về việc hạn chế quyền yêu cầu chia si sản thừa kế của vợ chồng khi một bên chết. Ngoài ra tại điểm a mục 4 Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23/12/2000 cũng chỉ rõ: việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình là trong trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu đem di sản này chia cho những người thừa kế được hưởng thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất,...

Bên cạnh đó, luật quy định Tòa án sẽ thụ lý yêu cầu chia tài sản thừa kế khi đã hết hạn do Tòa án xác định hoặc bên người vợ, chồng còn sống đã kết hôn với người khác.

Khác với Luật HN&GĐ năm 1986 của Nhà nước ta trước đây đã quy định “nguyên tắc chia đôi tài sản chung” [43, Điều 17] của vợ chồng khi vợ, chồng chết trước, Luật HN&GĐ năm 2000 đã “quên” không dự liệu về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp này. Đây là điểm khác biệt so với chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn [46, Điều 95]. Trong hai trường hợp này, mặc dù về nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia đôi do xuất phát từ sở hữu chung hợp nhất, nhưng Tòa án vẫn phải căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên trong việc tạo lập, quản lý tài sản chung. Từ đó Tòa án đưa ra quyết định chia phần tài sản chung cho mỗi bên vợ, chồng với giá trị tài sản khác nhau phụ thuộc vào công sức đóng góp của họ.

Đối với trường hợp vợ, chồng đã bị Tòa án tuyên bố chết và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng sau một thời gian vì lý do nào đó mà người vợ, chồng đó trở về thì việc xác định tài sản chung của vợ chồng rất phức tạp vì pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình của Nhà nước ta chưa có dự liệu về vấn đề này. Luật HN&GĐ năm 2000 mới chỉ đề cập về quan hệ nhân thân giữa vợ chồng khi một bên vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà lại trở về, còn quan hệ tài sản giữa vợ chồng (nhất là hậu quả pháp lý đối với khối tài sản chung của vợ chồng) thì chưa được pháp luật dự liệu [46, Điều 26].Vậy trong trường hợp này, những tài sản do mỗi bên vợ,

chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên trong khoảng thời gian từ khi phán quyết của Tòa án tuyên bố người vợ, chồng chết có hiệu lực pháp luật cho đến khi người đó trở về sẽ thuộc khối tài sản tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của vợ chồng? Vấn đề này Luật HN&GĐ năm 2000 chưa dự liệu cụ thể, vậy nên luật HN&GĐ cần dự liệu vấn đề này nhằm tạo căn cứ pháp lý thống nhất khi áp dụng.

Đối với quan hệ nhân thân và tư cách chủ thể của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết mà lại trở về, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Theo quy định của BLDS năm 2005 thì tư cách chủ thể (năng lực pháp luật và năng lực hành vi) của người đã bị Tòa án tuyên bố là đã chết mà lại trở về phải được tính từ ngày người đó “trở về” hoặc từ ngày “có tin tức xác thực là người đó còn sống”, chứ không phải từ ngày quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó đã chết có hiệu lực pháp luật. Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó đã chết dựa trên căn cứ “yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền và lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết” [49, Điều 83, Khoản 1].

Xét thấy, trường hợp vợ, chồng đã bị tuyên bố chết, sau này vì lý do nào đó người đó lại trở về thì quan hệ hôn nhân của họ đương nhiên được khôi phục nếu như người chồng hoặc vợ kia chưa kết hôn với người khác. Tuy nhiên, chế độ tài sản chung của vợ chồng được xác định như thế nào khi người chồng hoặc vợ đó trở về, pháp luật HN&GĐ và BLDS lại chưa dự liệu về vấn đề này. Có thể có hai trường hợp:

+ Sau khi người vợ, chồng đã bị tuyên bố là đã chết, tài sản chung của vợ chồng chưa chia, người chồng, vợ (còn sống) đang quản lý tài sản chung của vợ chồng;

+ Sau khi tuyên bố vợ, chồng đã chết, tài sản chung của vợ chồng đã được chia, phần tài sản của người vợ, chồng trong khối tài sản chung đã chia cho những người thừa kế của người đó.

Vậy, vấn đề đặt ra là:

Thứ nhất, khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người vợ, chồng đã chết, quan hệ hôn nhân của họ đương nhiên được khôi phục (nếu người vợ, chồng kia chưa kết hôn với người khác). Vậy quan hệ tài sản gồm khối tài sản chung của vợ chồng có đương nhiên được khôi phục lại hay không?

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 01/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí