Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Căn Cứ Xác Lập Quyền Sở Hữu Chung Của Vợ Chồng:

CHƯƠNG 3


NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT

VỀ CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CHUNG CỦA VỢ CHỒNG


3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CHUNG CỦA VỢ CHỒNG

Các quy định của pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng ở Việt Nam nhìn chung đã tạo được hành lang pháp lý cơ bản điều chỉnh các quan hệ về tài sản của vợ chồng trong thời gian qua. Các quy định này đã được phát triển cùng với sự phát triển của xã hội Việt Nam và đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định xã hội, phát triển gia đình, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân trong cuộc sống chung cũng như cuộc sống riêng. Đặc biệt sự ra đời của Luật HNGĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo ra sự phát triển mới của pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung cũng như các quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng nói riêng. Luật HNGĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành bên cạnh việc tiếp tục kế thừa và phát triển các quy định mang tính tiến bộ về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng trước đó như các quy định về việc thừa nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng, quyền tự do thỏa thuận xác lập quan hệ hôn nhân của các bên chủ thể cũng tạo ra bước ngoặt mới, mở rộng quyền tự do cá nhân qua việc lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật Việt Nam, ghi nhận sự thỏa thuận của vợ chồng cũng là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng.

Tuy nhiên, như trên đã phân tích, căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng phản ánh và được quyết định bởi quan điểm của xã hội về

quyền con người, quyền tự do dân sự, quyền tự do trong sở hữu cũng như các quan điểm của xã hội về các chức năng của gia đình. Trong khi đó, các quan điểm này cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội cũng đang ngày càng phát triển trên một tầm cao mới.

Sự phát triển cao của khoa học kỹ thuật dẫn đến sự phát triển với tốc độ rất cao của nền kinh tế, của đời sống con người đã và đang đặt các quyền con người với quan điểm về giải phóng con người lên một cấp độ mới. Chưa bao giờ vấn đề nhân quyền lại được cộng đồng quốc tế cũng như người dân quan tâm nhiều như ngày nay.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế cùng với sự bùng nổ của khoa học công nghệ về thông tin cũng đòi hỏi các cá nhân phải có nhiều sự linh hoạt, tự do hơn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mỗi một cá nhân đều phải có sự quyết định nhanh chóng về việc có đầu tư hay không đầu tư vào một hoạt động nào đó. Sự nhanh nhạy của các cá nhân trong hoạt động kinh doanh, sản xuất trong nhiều trường hợp trở thành yếu tố quyết định cho sự thành công của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong khi đó sự ràng buộc các cá nhân trong các quan hệ sở hữu chung của vợ chồng đang trở thành những thủ tục làm giảm sự nhanh nhạy này.

Thêm nữa, việc củng cố gia đình cùng với các chức năng xã hội của nó cũng đang ngày càng được quan tâm chú ý. Gia đình ngày nay được coi là nền tảng của xã hội. Muốn phát triển xã hội cần củng cố vững chắc các tế bào của nó: gia đình. Trong khi đó chức năng nuôi dưỡng, phát triển con người đang ngày càng được coi là chức năng quan trọng của gia đình cùng với các chức năng khác như kinh tế, văn hóa, xã hội.

Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - 11

Tất cả các thay đổi trên của kinh tế, xã hội đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung và các quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng nói riêng.

Trong khi đó, cùng với thời gian, pháp luật về hôn nhân gia đình đặc

biệt là Luật HNGĐ năm 2000 đã bắt đầu bộc lộ những điểm còn thiếu sót, hạn chế như việc xác định quan hệ vợ chồng trong trường hợp một bên bị tòa án tuyên là đã chết mà trở về, vấn đề về việc thay đổi giới tính, việc mua bán, trao đổi tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân …. và cũng đặt ra yêu cầu về việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng.

3.2. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CHUNG CỦA VỢ CHỒNG:

Để đảm bảo sự phát triển của gia đình và phù hợp với xu thế mới trong hội nhập kinh tế, quốc tế, qua nghiên cứu các vấn đề lý luận về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng cũng như các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về vấn đề này và thực tiễn áp dụng các quy định này trong thực tế, Luận văn nhận thấy các quy định pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng cần được sửa đổi theo hướng

Thứ nhất là tăng cường tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu tài sản theo nguyên tắc chung, bảo vệ quyền con người. Với xu thế hội nhập và mở rộng cũng như tăng cường bảo vệ các quyền con người như ngày nay, pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung cũng như các quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng nói riêng không thể nằm ngoài xu thế này và buộc phải có những quy định nhằm bảo đảm hơn nữa quyền con người. Nếu không, các quy định này sẽ bị coi là lạc hậu, không theo kịp với sự phát triển của xã hội và không đáp ứng được các yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của quyền con người cũng như quyền công dân - các quyền cơ bản của con người đã được pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam công nhận và bảo đảm.

Thứ hai, sở hữu chung của vợ chồng là cơ sở vật chất của gia đình, là điều kiện để gia đình có thể thực hiện các chức năng xã hội của mình. Chính vì vậy, các quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ

chồng phải được xây dựng trên cơ sở văn hóa, truyền thống, bảo vệ sự ổn định của gia đình, phản ánh được các quan điểm tiến bộ của xã hội về các chức năng của gia đình đồng thời phải có những định hướng nhất định để tạo điều kiện cho gia đình được phát triển theo hướng xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định.

Thứ ba, các quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng cần phải được sửa đổi theo hướng tăng cường hiệu quả cuả điều chỉnh pháp luật. Muốn vậy, chúng cần phải được sửa đổi theo hướng xây dựng các quy định hoàn chỉnh, đầy đủ, thống nhất, đồng bộ. Sự hoàn chỉnh, đầy đủ, thống nhất và đồng bộ ở đây bao hàm cả sự hoàn chỉnh, đầy đủ, thống nhất và đồng bộ trong toàn bộ hệ thống các quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng lẫn việc hoàn chỉnh thống nhất, đầy đủ và thống nhất trong mối quan hệ với các quy định khác của pháp luật về hôn nhân và gia đình cũng như pháp luật dân sự và pháp luật nói chung.

Với các quan điểm chung đã nêu trên, luận văn xin được đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng cũng như để các quy định này được thực hiện tốt hơn trong đời sống thực tế như sau:

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng:

Thứ nhất, cần có sự xác định rõ ràng về mối quan hệ giữa hai căn cứ cơ bản trong xác định tài sản chung của vợ chồng là thỏa thuận của vợ chồng và quy định của pháp luật

Như trên đã phân tích, thỏa thuận của vợ chồng và quy định của pháp luật là hai căn cứ cơ bản để xác định tài sản chung của vợ chồng. Trong đó việc xác định tài sản chung của vợ chồng trên cơ sở thỏa thuận của vợ chồng thể hiện quan điểm về quyền tự do cá nhân, quyền tự do dân sự, quyền tối cao của chủ sở hữu. Theo đó, chủ sở hữu có toàn quyền quyết

định đối với các tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Do vậy, vợ và chồng có toàn quyền định đoạt trong việc xác định tài sản nào sẽ là tài sản chung của vợ chồng, pháp luật sẽ chỉ can thiệp trong trường hợp vợ chồng không có thỏa thuận. Còn việc xác định tài sản chung trên cơ sở quy định và dự liệu của pháp luật là thể hiện quan điểm về việc bảo vệ các chức năng xã hội của gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế, hai mục đích trên trong nhiều trường hợp không đồng nhất với nhau. Vì nhiều khi để thực hiện chức năng xã hội của gia đình, quyền tự do cá nhân buộc phải thu hẹp lại và ngược lại. Chính vì vậy, pháp luật cần có quan điểm rõ ràng về mối quan hệ cũng như vị trí ưu tiên của hai căn cứ này, trong hai căn cứ này, căn cứ nào sẽ là căn cứ được xác định đầu tiên, được coi là cơ sở, căn cứ kia sẽ chỉ là căn cứ bổ trợ trong trường hợp không có căn cứ cơ sở.

Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay, như trên đã phân tích lại quy định song song hai căn cứ này. Về nguyên tắc, có thể coi, Điều 27 Luật HNGĐ năm 2000 là cơ sở cơ bản để xác định tài sản chung của vợ chồng. Theo đó, tài sản chung của vợ chồng trước tiên được xác định trên cơ sở quy định của pháp luật, ngoài ra vợ chồng có thể thỏa thuận các tài sản khác là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, Điều 29, 30 của Luật HNGĐ năm 2000 lại cho phép hai vợ chồng có thể thỏa thuận phân chia các tài sản chung này thành tài sản riêng và Điều 27 thì cho phép hai vợ chồng có thể thoả thuận các tài sản riêng sẽ là tài sản chung. Như vậy, với quy định tại Điều 29, 30 của Luật HNGĐ năm 2000, thỏa thuận của vợ chồng lại trở thành căn cứ quan trọng, cơ bản để xác định tài sản chung của vợ chồng. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, các quy định này thực chất hoàn toàn không có gì mâu thuẫn. Vì việc thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc chỉ được tiến hành trong thời kỳ hôn nhân và trên cơ sở các tài sản chung đã được tạo lập. Tài sản chung của vợ chồng vẫn tiếp tục được tạo lập sau đó theo căn cứ quy định tại Điều 27. Tuy nhiên, vấn đề lại được đặt ra trong nhiều trường hợp như trường hợp chia tài sản

chung để đầu tư sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp này lợi nhuận thu được từ tài sản đầu tư sản xuất, kinh doanh sẽ được coi là thu nhập hợp pháp của vợ chồng và là tài sản chung của vợ chồng theo Điều 27 hay là hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng và là tài sản riêng của vợ chồng theo Điều 30.

Như vậy, rõ ràng cả về mặt lý thuyết cũng như về mặt thực tế, pháp luật cần có sự xác định rõ ràng về vị trí của hai căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng này. Theo quan điểm cá nhân, pháp luật nên quy định thỏa thuận của vợ chồng là căn cứ trước tiên và cơ sở để xác định tài sản chung của vợ chồng và cho phép vợ chồng có thể thoả thuận về tài sản chung trước khi hôn nhân, pháp luật chỉ quy định khi vợ chồng không có thỏa thuận về tài sản chung. Điều này sẽ đảm bảo được quyền tự do cá nhân. Hơn nữa, với sự phát triển của xã hội ngày nay, trong nhiều trường hợp vợ chồng có thể tạo lập được nhiều tài sản có giá trị lớn trước hoặc sau hôn nhân. Sự thỏa thuận của vợ chồng về tài sản chung sẽ góp phần đảm bảo được lợi ích của các bên đồng thời vẫn có thể đảm bảo được các chức năng xã hội của gia đình. Bên cạnh đó, với quan niệm truyền thống của người Việt Nam là thường coi trọng yếu tố tình cảm mà ít khi chú ý đến các vấn đề tài sản trong quan hệ hôn nhân, việc cho phép các bên có thể thỏa thuận về tài sản chung, cũng như tài sản riêng với các thủ tục rõ ràng trong đăng ký kết hôn sẽ định hướng cho các chủ thể cũng như xã hội chú ý hơn đến vấn đề kinh tế trong việc đảm bảo thực hiện các chức năng xã hội của gia đình cũng như đảm bảo các quyền lợi cá nhân, góp phần tránh các mâu thuẫn nảy sinh.

Thứ hai, đối với căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng theo quy định của pháp luật, Luật HNGĐ nên sửa đổi lại theo hướng: ngoài những tài sản riêng thì những tài sản khác thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng đều thuộc sở hữu chung của vợ chồng

Về lý thuyết, rõ ràng có thể khẳng định tài sản chung của vợ chồng

và tài sản riêng của vợ, chồng gộp lại phải đồng nghĩa với khối tài sản của vợ, chồng. Vì vậy đương nhiên, nếu không phải là tài sản riêng của vợ chồng thì tài sản đó phải thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Do đó, nếu sửa đổi lại quy định về nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng theo hướng ngoài những tài sản riêng thì những tài sản khác thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng đều thuộc sở hữu chung của vợ chồng thì pháp luật sẽ rõ ràng và lôgíc hơn.

Việc quy định các loại tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng đồng thời lại có cả quy định về các loại tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng như hiện nay là thừa và có thể dẫn tới việc bỏ sót. Chính vì vậy, trong quy định về các loại tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, Luật HNGĐ đã phải liệt kê thêm một loại tài sản nữa đó là thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Điều này, rõ ràng có thể tạo ra sự mập mờ của pháp luật trong khi ta có thể sử dụng phương pháp loại trừ để xác định.

ở đây, nên quy định cụ thể các tài sản riêng còn các tài sản chung thì sử dụng phương pháp loại trừ vì về nguyên tắc, chế độ tài sản của vợ chồng được áp dụng ở pháp luật hôn nhân gia đình của nước ta hiện nay là chế độ cộng đồng tạo sản, tức là các tài sản chung và tài sản riêng được phân biệt cơ bản là ở thời điểm có được tài sản đó là trong thời kỳ hôn nhân hay không và một số trường hợp đặc biệt của tài sản riêng là do được thừa kế, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Như vậy, nếu quy định rõ về tài sản riêng và dùng phương pháp loại trừ cho tài sản chung thì sẽ thuận tiện hơn rất nhiều.

Thêm vào đó, thực tiễn áp dụng pháp luật gần như cũng nghiêng về việc sử dụng phương pháp loại trừ với trường hợp nếu không phải là tài sản riêng thì sẽ là tài sản chung. Có thể thấy rõ điều này qua việc tiến hành giao dịch trên cơ sở các tài sản có đăng ký quyền sở hữu như quyền sử dụng đất. Một người, mặc dù chỉ đứng tên một mình trên Giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất, nếu muốn thực hiện giao dịch dân sự đối với mảnh đất này (ví dụ chuyển nhượng quyền sử dụng đất), họ phải chứng minh được rằng đây là tài sản riêng của họ. Nếu không hợp đồng mua bán của họ sẽ không được công chứng, không được pháp luật công nhận. Như vậy, rõ ràng các cơ quan áp dụng pháp luật trong quá trình hoạt động của mình trên thực tế đã áp dụng phương pháp loại trừ bằng việc yêu cầu chứng minh tài sản riêng.

Việc sửa đổi lại quy định về căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng như trên cũng tạo ra sự thống nhất giữa các hệ thống pháp luật. Các quy định của pháp luật hôn nhân gia đình hiện nay đã đưa ra các căn cứ về nguồn gốc có được tài sản của vợ chồng đồng thời bổ sung thêm điều kiện về thời gian chuyển giao quyền sở hữu. Trong khi đó, pháp luật dân sự đã có quy định cụ thể về các căn cứ xác lập quyền sở hữu. Như vậy, rõ ràng pháp luật hôn nhân gia đình đã quy định các căn cứ xác lập quyền sở hữu của pháp luật dân sự như xác lập quyền sở hữu do được thừa kế, do lao động, sản xuất, kinh doanh v.v…. Đồng thời cũng tạo ra sự không thống nhất với khái niệm mới về hành vi “tạo ra” tài sản của vợ chồng, “thu nhập” và những khoảng trống phải lấp bằng quy định về “thu nhập hợp pháp khác”.

Tóm lại việc sửa đổi quy định về căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng theo hướng như trên sẽ tránh được sự chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật đồng thời tạo thuận lợi lớn cho quá trình áp dụng pháp luật.

Thứ ba, cần xây dựng khái niệm về tài sản thay thế trong việc xác định các tài sản của vợ chồng:

Gọi là tài sản thay thế khi một tài sản đi vào một sản nghiệp với tư cách là vật thay thế cho tài sản đi ra khỏi sản nghiệp đó: bán một căn nhà để mua một căn nhà khác, căn nhà được bán là vật đi ra, căn nhà được mua là vật thay thế. Chủ sở hữu trước đây có quyền sở hữu đối với căn nhà được bán, nay là chủ sở hữu căn nhà được mua. Trong trường hợp số tiền

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 11/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí