hòa thuận hạnh phúc, vợ chồng thường không phân biệt tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng. Cả vợ và chồng đều mong muốn sử dụng các loại tài sản nhằm đáp ứng nhu cầu chung của gia đình, của vợ chồng; giữa vợ chồng thường không phân biệt tài sản chung và tài sản riêng, không phân biệt “của anh” hay “của tôi”. Trong thời gian chung sống vợ chồng cùng chung sức, chung ý chí tạo dựng tài sản chung. Đồng thời, vợ chồng cũng thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản vì quyền lợi của gia đình. Trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự định đoạt tài sản của vợ chồng, giữa vợ chồng có thể thỏa thuận cho rằng tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng hoặc là tài sản riêng của vợ, chồng. Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng đã tự nguyện nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng.
Việc vợ, chồng tự nguyện nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng có thể là mặc nhiên hoặc bằng văn bản. Thực tế giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng cho thấy nhiều trường hợp khó xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ chồng. Vì đời sống chung của gia đình, nhiều trường hợp tài sản riêng của một bên đã được bảo đảm cho nhu cầu chung của gia đình mà không còn nữa hoặc có sự chuyển hóa, trộn lẫn giữa các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng trong quá trình sử dụng dẫn tới các ranh giới (căn cứ) ban đầu về tài sản chung và tài sản riêng giữa vợ chồng không còn nữa và rất khó xác định. Xuất phát từ thực trạng đó, nhằm đảm bảo nguyên tắc công bằng và hợp lý, Luật HN&GĐ năm 2000 đã dự liệu “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung” [46, Điều 27, Khoản 3]. Đây là nguyên tắc suy đoán về nguồn gốc tài sản của vợ chồng, lần đầu tiên được quy định trong Luật HN&GĐ của Nhà nước ta (trước đây Luật HN&GĐ năm 1986 không quy định cụ thể về nguyên tắc này).
Bên cạnh quy định những căn cứ xác lập tài sản chung vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 2000 còn quy định tương đối cụ thể về quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung trong việc: tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng được sử dụng để bảo đảm nhu
cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận [46, Điều 28]. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
Tóm lại, Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định các căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng là dựa vào thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc của các loại tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Những quy định này có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở pháp lý bảo đảm quyền của vợ chồng đối với tài sản chung, giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định tài sản chung của vợ chồng chính xác, nhằm giải quyết tốt các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng.
2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất
2.2.1. Quyền của vợ, chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất
Vợ, chồng bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo nguyên tắc vợ chồng bình đẳng với nhau về mọi mặt trong gia đình [46, Điều 19, Điều 28]. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất trong đó vợ, chồng bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do hai vợ chồng cùng tạo ra một cách trực tiếp và không phụ thuộc vào công sức đóng góp của mỗi bên vợ, chồng khi tạo lập tài sản.
Với tư cách là đồng chủ sở hữu tài sản chung, vợ chồng có quyền bình đẳng với nhau khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung. Vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận sử dụng tài sản chung nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình, sao cho việc sử dụng, định đoạt tài sản chung đem lại lợi ích nhiều nhất cho cuộc sống chung của vợ chồng; bảo đảm nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục các con, cũng như quyền lợi của các thành viên khác trong gia đình.
Do tính tất yếu của cuộc sống chung của vợ chồng đòi hỏi vợ chồng phải có quan hệ giao dịch với những người khác liên quan đến tài sản chung, nhằm đảm bảo nhu cầu của gia đình, của vợ chồng. Chính vì thế, nhà làm luật đã dự liệu:
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Định Về Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Của Một Số Nước Trên Thế Giới
- Căn Cứ Xác Lập Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng
- Tài Sản Do Vợ Hoặc Chồng Tạo Ra Trong Thời Kỳ Hôn Nhân
- Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Vợ Chồng Ly Hôn
- Thực Tiễn Áp Dụng Chế Độ Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng
- Các Quy Định Pháp Luật Về Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
- Đối với những giao dịch thông thường, liên quan đến những tài sản giá trị không lớn nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình, thì vợ hoặc chồng định đoạt tài sản chung đó luôn được pháp luật coi là sự thỏa thuận đương nhiên của cả hai vợ chồng (mặc dù chỉ có một bên vợ, chồng định đoạt tài sản). Ví dụ: hàng ngày vợ, chồng dùng tiền bạc, tài sản chung bảo đảm các nhu cầu về ăn, ở, học hành, chữa bệnh... thì các giao dịch này luôn được coi là đã có sự thỏa thuận đương nhiên của cả hai vợ chồng.
- Đối với những tài sản chung của vợ chồng có giá trị lớn thì khi định đoạt, phải có sự thỏa thuận của hai vợ chồng (tivi, tủ lạnh, xe máy, ô tô, tàu, thuyền đánh cá, quyền sử dụng đất, nhà ở...). Nếu pháp luật quy định hợp đồng liên quan đến tài sản chung của vợ chồng này phải được ký kết bằng văn bản (hợp đồng mua bán nhà, chuyển quyền sử dụng đất,...) thì hình thức của hợp đồng phải tuân theo quy định của pháp luật. Vợ, chồng phải cùng trực tiếp ký vào văn bản (hợp đồng), nếu chỉ có một bên trực tiếp ký thì phải có giấy ủy quyền cho vợ, chồng ký thay, hợp đồng mới có hiệu lực [49, Điều 28, Khoản 3].
Cụ thể hóa quy định trên và xuất pháp từ thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích chung của gia đình Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ đã quy đối với giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của vợ chồng mà có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình; hoặc giao dịch đó có liên quan đến việc định đoạt riêng thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng đã đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia đình đều phải có sự thỏa thuận của vợ chồng theo đúng hình thức mà pháp luật quy định.
Nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc giúp Tòa án giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ còn quy định:
3. Tài sản có giá trị lớn của vợ chồng nói tại khoản 1, khoản 2 điều này được xác định căn cứ vào phần giá trị của tài sản đó trong khối tài sản chung của vợ chồng.
4. Trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các quyền giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung quy định tại khoản 1, khoản 2 điều này mà không có sự đồng ý của một bên, thì bên đó có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu theo quy định tại Điều 122 BLDS năm 2005 và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 137 BLDS năm 2005 [5, Điều 4, Khoản 3,4].
Sở hữu chung hợp nhất về tài sản của vợ chồng có những đặc điểm riêng biệt, khác với sở hữu chung theo phần:
- Tài sản chung của vợ chồng được sử dụng nhằm bảo đảm nhu cầu đời sống chung của gia đình;
- Một bên vợ, chồng không thể tự ý định đoạt tài sản chung có giá trị lớn nếu không có sự thỏa thuận của bên kia.
Nhà nước ta bằng pháp luật đã quy định về chế độ tài sản chung hợp nhất của vợ chồng theo một quy chế pháp lý đặc biệt chặt chẽ nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của vợ chồng, của gia đình và của những người khác liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Quy định tại Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000, Nghị định số 70/2001/NĐ- CP ngày 03/10/2001 đã tạo cơ sở pháp lý rất quan trọng mang tính thực tiễn áp dụng Luật HN&GĐ, liên quan tới các quy định về giao dịch dân sự trong BLDS.
Thực tế nhiều năm qua cho thấy, khi có tranh chấp về tài sản chung giữa vợ chồng liên quan tới quyền lợi của những người khác trong các trường hợp: ký kết hợp đồng về mua, bán, tặng cho, thừa kế xuất phát từ khối tài sản chung của vợ chồng, các cấp Tòa án đã có những quan điểm không thống nhất trong thực tiễn áp dụng luật liên quan tới khối tài sản chung của vợ chồng.
Ví dụ: Thực tế có một số trường hợp một bên vợ, chồng đi công tác vắng nhà, khi trở về đã khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng (tuyên bố hợp đồng
mà người chồng, vợ kia đã ký kết với người khác liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng):
- Có Tòa án đã công nhận hợp đồng đó có giá trị một nửa (1/2) về phía người chồng, vợ đã trực tiếp ký kết hợp đồng đó với người khác; và xác định một nửa (1/2) giá trị hợp đồng bị coi là vô hiệu (phần giá trị tài sản về phía người chồng, vợ đi vắng không có hiệu lực); đồng thời, buộc người chồng, vợ kia phải bồi thường cho người giao kết hợp đồng đó bằng đúng phần giá trị của người vợ, chồng đi vắng đã không có sự thỏa thuận khi định đoạt tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng.
- Có trường hợp Tòa án tuyên bố hợp đồng do một bên vợ, chồng tự định đoạt tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng mà không có sự thỏa thuận của người vợ, chồng kia luôn bị coi là vô hiệu (toàn bộ), khi có yêu cầu [13, tr.166].
Như vậy những quy định pháp luật trên đã tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ và thống nhất trong thực tiễn áp dụng luật liên quan đến quyền tự định đoạt tài sản chung của vợ, chồng. Góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, cũng như trong vợ chồng, giúp ổn định các quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Từ đó tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.
2.2.2. Nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung hợp nhất
Tài sản chung của vợ chồng là cơ sở kinh tế nhằm đáp ứng các lợi ích của vợ chồng cả về vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy trong quá trình quản lý để đảm bảo lợi ích của cả vợ, chồng và những người liên quan pháp luật có quy định về việc vợ, chồng có thể bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự [49, Điều 23]. Và trên thực tế xem xét khi chia tài sản chung của vợ chồng thì nếu như một bên lời biếng, không chịu tạo lập tài sản chung hoặc có hành vi phá tán tài sản, hoang phí thì sẽ không được chia phần ngang bằng với người kia [46, Điều 95, Khoản 2, Điểm a]. Hay quy định về người vợ hoặc chồng được Tòa án chỉ định là đại diện theo pháp luật cho người còn lại khi bên người đó bị tuyên bố hạn chế mất năng lực hành vi dân sự [46, Điều 24].
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000, tài sản chung
của vợ chồng phải được bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Nhưng chỉ nghĩa vụ nào được xác định là nghĩa vụ chung của vợ chồng thì khối tài sản chung của vợ chồng mới phải chịu trách nhiệm cho các nghĩa vụ đó. Trong pháp luật hiện nay các văn bản quy định, hướng dẫn áp dụng luật vẫn chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.
Trong cuộc sống, đôi khi do nhu cầu sinh hoạt gia đình hay để duy trì cuộc sống chung thì vợ chồng phải vay mượn tiền bạc, tài sản của người khác. Đây là khoản nợ mà vợ chồng phải có nghĩa vụ hoàn trả cho chủ nợ và khối tài sản chung phải được bảo đảm cho các khoản nợ đó. Theo quy định thì nếu là khoản nợ chung thì cả vợ và chồng đều phải có nghĩa vụ trả nợ, nhưng nếu vợ hoặc chồng vay nợ sử dụng vào mục đích riêng, bảo đảm cho nhu cầu riêng của mỗi người thì người vợ, chồng đó phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng của mình.
Trên thực tế, khó có thể xác định được một khoản nợ là nợ chung hay nợ riêng của vợ, chồng nên khó xác định trách nhiệm trả nợ là trách nhiệm chung của vợ chồng hay riêng của mỗi cá nhân vợ, chồng. Mặt khác, truyền thống của gia đình người Việt Nam thường coi trọng tình cảm, coi nhẹ tiền bạc, nhưng đến khi có tranh chấp xảy ra thì lại thường gay gắt và phức tạp. Một giải pháp được Luật HN&GĐ năm 2000 dự liệu đó là: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình” [46, Điều 25].
Quy định trên nhằm xác định nghĩa vụ chung của vợ chồng đối với các giao dịch dân sự hợp pháp do một bên vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch vì lợi ích của gia đình. Đây là một trong những quy định mới của Luật HN&GĐ năm 2000, khi dự liệu về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung. Từ đó cho thấy, nếu như một bên vợ, chồng có vay nợ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình như ăn ở, học hành, chữa bệnh,... thì món nợ này được bảo đảm thanh toán bằng tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên quy định về thế nào là“nhu cầu thiết yếu của gia đình” thì chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Luật
HN&GĐ năm 2000 có quy định nghĩa vụ về thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng do tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết [46, Điều 95, Khoản 3].
2.3. Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và người có quyền lợi liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, kế thừa và phát triển Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 đã dự liệu ba trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng:
- Trong thời kỳ hôn nhân;
- Khi vợ chồng ly hôn;
- Khi một bên chết trước.
2.3.1. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Kế thừa quy định Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986, Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 tiếp tục thừa nhận về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, và hình thức của thỏa thuận chia tài sản chung này phải được lập thành văn bản. Tuy nhiên luật cũng quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản thì không được pháp luật công nhận.
Tuy vậy, trên thực tế tính cho đến nay các án kiện mà vợ chồng có yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không nhiều, đó là do tính chất của quan hệ hôn nhân. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ là trường hợp đặc biệt ngoại lệ. Quy định này xuất phát từ thực tiễn đời sống xã hội: có một số trường hợp vì lý do nào đó, mặc dù vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc, nhưng không muốn ly hôn mà chỉ muốn ra ở riêng và yêu cầu chia tài sản chung (như vợ chồng đã già dù có mâu thuẫn sâu sắc nhưng ly ôn sợ ảnh hưởng đến hòa khí trong gia đình, con cháu lo buồn, hàng xóm chê cười; họ chỉ yêu cầu chia tài sản chung....). Một số trường hợp thì do công việc kinh doanh buôn bán mà vợ, chồng cần phải có vốn để đầu tư kinh doanh, buôn bán nhưng tài sản riêng không đủ mà người chồng hoặc người vợ kia lại không đồng ý cho sử dụng tài sản chung vào
công việc kinh doanh, buôn bán đó vì một lý do nào đó. Chính vì vậy, người vợ (chồng) đã yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm lấy phần tài sản của mình trong khối tài sản chung để làm vốn đầu tư kinh doanh. Cũng có trường hợp do vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng (như trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân người vợ hoặc chồng đó đã vay nợ (một khoản tiền hay tài sản) sử dụng vào nhu cầu riêng). Nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ mà vợ chồng không thỏa thuận được về việc lấy tài sản chung để trả nợ riêng cho một bên thì vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để người vợ, chồng lấy phần tài sản của mình trong khối tài sản chung của vợ chồng nhằm thanh toán món nợ mà mình đã vay của người khác.
Quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ngoài việc đảm bảo tính thực tiễn, đảm bảo quyền và lợi ích mỗi cá nhân vợ, chồng đối với phần tài sản của mình trong khối tài sản chung còn nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của những người khác có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.
Tuy nhiên chúng ta cần xác định Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không đồng nghĩa với việc thừa nhận vấn đề ly thân giữa vợ chồng. Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng với nhau về mọi mặt phương diện, trong đó bảo đảm quyền nhân thân của vợ chồng khi lựa chọn nơi cư trú chung [49, Điều 55]; [50, Điều 20]. Việc vợ chồng sống chung hay ở riêng phụ thuộc vào các yếu tố như: điều kiện, hoàn cảnh nghề nghiệp, nguyện vọng của các cặp vợ chồng và cũng là quyền của vợ chồng. Pháp luật của Nhà nước không thể, cũng không cần thiết phải “can thiệp” vào đời sống tình cảm riêng tư của các cặp vợ chồng.
So với Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986, Điều 29, 30 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định cụ thể hơn về điều kiện, quyền yêu cầu và hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Trước đây, theo Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986, các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại đều phải do Tòa án quyết định và nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng trong trường hợp này giống với trường hợp vợ chồng ly hôn [43, Điều 42].