hay không thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được pháp luật công nhận và thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân được tính từ ngày họ chung sống với nhau như vợ chồng, chứ không phải là từ ngày đăng ký kết hôn.
- Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng (không đăng ký kết hôn) mà có đủ điều kiện kết hôn từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 thì họ phải có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm, để hợp thức quan hệ vợ chồng của họ trước pháp luật (từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003). Nếu trong thời hạn này, dù họ có đăng ký kết hôn hay không thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận và thời điểm phát sinh quan hệ hôn nhân được tính từ ngày họ chung sống với nhau như vợ chồng, chứ không phải là từ ngày đăng ký kết hôn. Nếu sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn theo thủ tục luật định thì pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng giữa họ. Nếu sau ngày 01/01/2003 mà họ mới đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ (trong đó thời điểm phát sinh quan hệ hôn nhân) được tính xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn, chứ không phải tính từ ngày họ chung sống với nhau như vợ chồng.
Tại Điều 3 Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của chính phủ đã quy định về việc công nhận ngày hôn nhân có hiệu lực đó là ngày xác lập quan hệ vợ chồng hoặc chung sống với nhau như vợ chồng trên thực tế và ngày này được ghi rõ trong sổ đăng ký kết hôn và giấy chứng nhận kết hôn.
Hướng dẫn thêm về việc này, tại điểm c mục 1 Nghị định số 77/2001/NĐ-CP cũng quy định về thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới; hoặc ngày họ về chung sống với nhau được một hoặc cả hai bên gia đình chấp nhận; hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Từ những phân tích trên cho thấy, thời điểm phát sinh quan hệ hôn nhân theo quy định là tính từ ngày đăng ký kết hôn. Tất cả các loại tài sản mà vợ chồng có được từ sau ngày đăng ký kết hôn và trong suốt thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng (trừ tài sản riêng của vợ, chồng). Vấn đề công
nhận hôn nhân thực tế (công nhận quan hệ vợ chồng) chỉ là ngoại lệ và quan hệ hôn nhân trong trường hợp này được tính phát sinh kể từ ngày nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng, chứ không phải từ ngày đăng ký kết hôn để hợp thức quan hệ vợ chồng của họ trước pháp luật (Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc hội).
Hiện nay, theo các văn bản của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì những trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn chỉ được công nhận là vợ chồng (trước đây gọi là “hôn nhân thực tế”) kể từ trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực pháp luật).
Việc xác định thời điểm phát sinh quan hệ hôn nhân (cũng là thời điểm phát sinh khối tài sản chung của vợ chồng), theo nguyên tắc chung phải dựa trên cơ sở giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận kết hôn. Nó có ý nghĩa quan trọng trong thực tế giải quyết các tranh chấp về cấp dưỡng, thừa kế giữa vợ chồng và các thành viên gia đình.
- Đối với trường hợp vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mà sau này vì lý do nào đó họ lại trở về (chưa chết), thì việc xác định tài sản chung của vợ chồng rất phức tạp vì pháp luật dân sự và HN&GĐ của Nhà nước ta chưa có dự liệu về vấn đề này.
BLDS năm 2005 và Luật HN&GĐ năm 2000 có quy định về một số hậu quả pháp lý khi Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết, nhưng quy định này mới chỉ đề cập về quan hệ nhân thân giữa vợ chồng khi một bên bị tuyên bố là đã chết mà lại trở về, còn quan hệ tài sản giữa vợ chồng (nhất là hậu quả pháp lý đối với khối tài sản chung của vợ chồng) thì chưa được pháp luật dự liệu [49, Điều 83]; [46, Điều 26]. Trên lý thuyết và thực tế cho thấy:
Có thể bạn quan tâm!
- Thời Kỳ Miền Nam Nước Ta Trước Ngày Thống Nhất Đất Nước (1954 -1975)
- Quy Định Về Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Của Một Số Nước Trên Thế Giới
- Căn Cứ Xác Lập Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng
- Quyền Và Nghĩa Vụ Của Vợ, Chồng Đối Với Tài Sản Thuộc Sở Hữu Chung Hợp Nhất
- Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Vợ Chồng Ly Hôn
- Thực Tiễn Áp Dụng Chế Độ Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
Trường hợp vợ, chồng đã bị tuyên bố chết nhưng sau này lại trở về, nếu người chồng hoặc vợ còn sống chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân của họ đương nhiên được khôi phục. Tuy nhiên, chế độ tài sản chung của vợ chồng được xác định như thế nào khi người chồng hoặc vợ đó trở về. Về phần tài sản của người bị tuyên bố là đã chết sẽ có hai trường hợp:
- Tài sản chung của vợ chồng chưa chia, người chồng, vợ (còn sống) đang quản lý tài sản chung của vợ chồng;
- Tài sản chung của vợ chồng đã được chia và phần tài sản của người bị tuyên bố là đã chết đã chia cho những người thừa kế của người đó.
Từ đó, có mấy vấn đề được đặt ra:
Thứ nhất, khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người vợ, chồng đã chết, quan hệ hôn nhân của họ đương nhiên được khôi phục nếu người vợ, chồng kia chưa kết hôn với người khác. Vậy quan hệ tài sản gồm khối tài sản chung của vợ chồng có đương nhiên được khôi phục lại hay không?
Thứ hai, sau khi người vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết, những tài sản do người chồng, vợ tạo dựng cùng hoa lợi, lợi tức thu được từ các loại tài sản kể trên từ khi người vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết cho đến ngày trở về, thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của người chồng, vợ đó?
Thứ ba, những hợp đồng mà người chồng, vợ đã ký kết với người khác (người thứ ba) nhưng chưa được thực hiện; các món nợ mà người chồng hoặc vợ vay của người khác nhằm đáp ứng các nhu cầu nuôi dưỡng, giáo dục các con, nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc cấp dưỡng đối với các thành viên khác trong gia đình thuộc nghĩa vụ chung của vợ chồng (khối cộng đồng tài sản phải gánh chịu) theo trách nhiệm liên đới giữa vợ chồng [46, Điều 25]. Những vấn đề này rất cần thiết được pháp luật dự liệu để có cơ sở pháp lý giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và liên quan đến quyền lợi của người khác.
Từ những nội dung trên, ta có thể khẳng định căn cứ đầu tiên để xác lập tài sản chung của vợ chồng đó là dựa vào “thời kỳ hôn nhân”. Toàn bộ những tài sản sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Điều này cũng được quy định trong hệ thống pháp luật HN&GĐ của nhiều nước trên thế giới. Ví dụ, tại Điều 27 Luật HN&GĐ và giám hộ cộng hòa nhân dân Hunggary có quy định: Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau theo chế độ tài sản chung trong suốt thời kỳ hôn nhân. Sở hữu chung tài sản của vợ chồng này là sở hữu chung không phân chia, trừ những tài sản thuộc sở hữu riêng cá nhân của một người [13, tr.147-150].
2.1.2. Dựa vào nguồn gốc tài sản
2.1.2.1. Tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân
Sau khi kết hôn, quan hệ hôn nhân được xác lập, khi đó vợ chồng cùng nhau tạo dựng tài sản chung để duy trì cuộc sống gia đình, đảm bảo các nhu cầu của đời sống chung, đáp ứng các nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau, nuôi dưỡng và giáo dục con cái,… Tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân được hiểu là vợ chồng dựa vào năng lực của chính bản thân để tạo ra thu nhập mua tài sản hoặc chính vợ, chồng trực tiếp sử dụng sức lao động của mình để tạo ra tài sản.
Hành vi tạo ra tài sản của vợ, chồng còn được hiểu là vợ, chồng đã sử dụng tiền bạc, tài sản của mình, thông qua các hợp đồng mua sắm các tài sản đó, chuyển quyền sở hữu tài sản từ người khác, sang quyền sở hữu của vợ chồng (như mua nhà ở, ti vi, xe máy, giương, tủ, bàn ghế, chuyển quyền sử dụng đất....); bảo đảm cho các nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của gia đình hoặc để vợ chồng đầu tư sản xuất, kinh doanh. Như vậy, những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Pháp luật về HN&GĐ của nhiều nước đều quy định như vậy. Ví dụ như theo khoản 2 Điều 30 Luật gia đình Cộng hòa Cuba quy định:
Tài sản chung của vợ chồng được xác lập bao gồm những tài sản do vợ chồng mua sắm được và quyền lợi tạo ra trong thời gian hôn nhân bằng tiền hoặc vốn chung dù là nhân danh cả hai vợ chồng hay nhân danh một người mà mua sắm tài sản để tạo quyền lợi.
2.1.2.2. Thu nhập hợp pháp của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân
Trước đây Luật HN&GĐ năm 1986 đã dự liệu tài sản chung của vợ chồng bao gồm “thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” [43, Điều 14]. Kế thừa quy định đó Luật HN&GĐ năm 2000 cũng quy định tài sản chung của vợ chồng, còn bao gồm những “thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời ky hôn nhân” [46, Điều 27, Khoản 1]. Đây được coi là loại tài sản chủ yếu thuộc tài sản chung của vợ chồng.
Theo từ điển tiếng Việt thì “thu nhập” được hiểu là “nhận được tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động nào đó” [39, tr.990]. Còn theo từ điển thuật ngữ về thuế thì “thu nhập” là quyền lợi kinh tế, tiền hay giá trị nhận được.
Như vậy, thu nhập của vợ chồng thuộc khối tài sản chung của vợ chồng là những lợi ích vật chất mà vợ, chồng có được do tham gia lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh. Theo thực hiện, vợ chồng được hưởng thành quả lao động hoặc các lợi nhuận do hoạt động kinh doanh mang lại, cũng như các hoa lợi, lợi tức thu được từ các loại tài sản của vợ chồng trong quá trình lao động, sản xuất, kinh doanh. Thu nhập của vợ chồng gồm có nhiều loại, nhưng thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh là loại thu nhập ổn định, cơ bản và chủ yếu. Vợ chồng bằng hành vi của mình, tạo thu nhập thông qua quá trình lao động, sản xuất, kinh doanh một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong đời sống xã hội hiện nay, thu nhập chủ yếu của các cặp vợ chồng thường là tiền lương, tiền công lao động, những thu nhập và tài sản do vợ chồng làm kinh tế gia đình (chăn nuôi, trồng trọt, tiểu thủ công nghiệp...), hoặc lợi nhuận thông qua việc sản xuất, kinh doanh.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 còn quy định tài sản chung của vợ chồng cũng bao gồm các thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Cụ thể hóa quy định này, tại mục 3, điểm a Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC đã hướng dẫn: Những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số hoặc những tài sản được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247, 248, 249, 250, 251 và 252 Bộ luật dân sự... trong thời kỳ hôn nhân [27].
Từ những nội dung trên, ta thấy kể từ thời điểm kết hôn và trong suốt thời kỳ hôn nhân hợp pháp thì thu nhập do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh của cả hai vợ chồng hoặc của vợ, của chồng có được đều là tài sản chung của vợ chồng mà không phân biệt tài sản nào do vợ, tài sản nào do chồng tạo ra. Ngoài ra, tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng không phân biệt ai làm ra hay ai làm ra nhiều, ai làm ra ít mà quy định đều là tài sản chung của vợ chồng. Đây là một điểm
rất đặc biệt trong căn cứ xác lập quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng khác với sở hữu chung theo phần. Đặc điểm này là bản chất của quan hệ sở hữu và chỉ có được trong quan hệ hôn nhân. Điều này được ghi nhận tại Điều 15 Luật HN&GĐ năm 1959, Điều 14 Luật HN&GĐ năm 1986 và Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000.
Như vậy căn cứ xác lập quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng chủ yếu và cơ bản là dựa vào những thu nhập do lao động, do hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác và không bị hạn chế về giá trị tài sản mà vợ hoặc chồng có được thu nhập hợp pháp.
2.1.2.3. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung
Căn cứ này không phổ biến bằng hai căn cứ trên, nhưng cũng là căn cứ xác lập quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Đây là trường hợp xác lập tài sản chung của vợ chồng dựa trên quyền định đoạt của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật về thừa kế [49, Điều 245, 631, 686].
- Vợ chồng được thừa kế chung:
Theo quy định của pháp luật thừa kế thì vợ chồng không thể cùng được thừa kế theo pháp luật của bố mẹ vợ hoặc bố mẹ chồng. Vợ chồng cùng được thừa kế chung chỉ trong trường hợp thừa kế theo di chúc. Vợ và chồng cùng được thừa kế chung theo di chúc được hiểu là vợ và chồng cùng được chỉ định là những người thừa kế hưởng chung phần di sản theo di chúc của người để lại di sản. Việc xác định vợ và chồng cùng được thừa kế chung theo di chúc là căn cứ xác lập quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ, chồng. Việc xác định này nhằm để phân biệt với trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế theo di chúc hoặc cả vợ và chồng cùng được thừa kế theo di chúc nhưng với tư cách là từng người thừa kế riêng.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng đều được thừa kế theo di chúc của một người, nhưng phần di sản của mỗi người được xác định cụ thể trong nội dung của di chúc, thì không thể được xem là căn cứ xác lập quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Trong trường hợp này thì vợ và chồng được thừa kế riêng, phần di sản mỗi người được thừa kế là tài sản riêng của mỗi người. Và phần di sản này chỉ là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng khi vợ hoặc chồng sáp nhập phần di sản của mình
vào khối tài sản chung hay vợ chồng thỏa thuận đó là tài sản chung. Như vậy, căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng do thừa kế chung chỉ phát sinh trong trường hợp là vợ chồng cùng được chỉ định thừa kế khối di sản chung trong di chúc.
- Vợ, chồng được tặng cho chung:
Vợ, chồng được tặng cho chung tài sản là căn cứ xác lập sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Trong đời sống thực tế, vợ chồng cùng được bố mẹ vợ hoặc chồng, bạn bè hoặc những người thân thích bên nội hoặc ngoại tặng cho chung, khi đó tài sản được tặng cho chung này là tài sản sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.
Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn nhiều tồn tại những tranh chấp liên quan đến sự kiện này. Trên thực tế đã cho thấy, việc bố mẹ vợ hoặc bố mẹ chồng tặng cho vợ chồng nhà ở, quyền sử dụng đất,… nếu vợ chồng hòa thuận thì không sao, nhưng khi có tranh chấp xảy ra thì trở nên phức tạp.
Có những trường hợp vợ chồng ly hôn, ngôi nhà hoặc diện tích đất mà bên bố mẹ vợ hoặc bố mẹ chồng đã cho hai vợ chồng khi mới lập nghiệp nhưng không có văn bản, không có hợp đồng tặng cho… Vì vậy, đến khi ly hôn tài sản này không được coi là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để chia khi ly hôn. Những nguyên nhân dẫn đến vấn đề này như sau:
+ Do người Việt Nam chúng ta sống trọng tình nghĩa, rất ngại đề cập đến vấn đề tài sản khi mà tình cảm đang mặn nồng. Vì vậy, khi cha mẹ hay người thân tặng cho tài sản đã không lập văn bản nào để ghi nhận sự kiện đó. Đến khi có tranh chấp xảy ra thì không có căn cứ nào chứng minh đó là tài sản đó là thuộc khối tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
+ Do nhận thức của người dân Việt Nam ta còn chưa cao, cảm thấy không cần thiết ký kết các văn bản tặng cho do không nắm rõ quy định của pháp luật. Và có người còn cho rằng làm văn bản ký kết như thế làm ảnh hưởng tới tình cảm các bên, cho rằng không tin tưởng nhau hay như thế nào. Trong khi đó pháp luật quy định rõ các trường hợp tặng cho phải làm văn bản tặng cho có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền, hay làm hợp đồng có chứng nhận của văn phòng công chứng. Ví dụ: tặng cho nhà ở [53, tr.173-177].
2.1.2.4. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn
Theo quy định của BLDS và pháp luật đất đai, quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản có tính chất đặc thù. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm đúng mục đích và hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài [48, Điều 17,18]. Cá nhân có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, để lại thừa kế quyền sử dụng đất. Theo Khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Cụ thể hơn điều này, tại Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định:
- Quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc một bên vợ hay chồng được Nhà nước giao, kể cả giao khoán là tài sản chung của vợ chồng (các quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối; đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở được Nhà nước giao, đất chuyên dùng,…).
- Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hay chỉ một bên vợ hoặc chồng được Nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng, cũng là tài sản chung của vợ chồng đối với đất mà vợ chồng nhận thế chấp quyền sử dụng đất của người khác.
- Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận [13, tr.157-158].
2.1.2.5. Tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung, những tài sản không đủ chứng cứ xác định là tài sản riêng
Thực tế cuộc sống chung giữa vợ chồng cho thấy, do quan hệ vợ chồng được xác lập dựa trên yếu tố tình cảm, yêu thương gắn bó giữa vợ chồng nên khi cuộc sống