Thực Tiễn Áp Dụng Các Căn Cứ Xác Lập Quyền Sở Hữu Chung Của Vợ Chồng Ở Việt Nam Hiện Nay

các đối tượng của sở hữu trí tuệ


Thứ ba là thu nhập khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân


Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP xác định như sau: “Những thu nhập hợp pháp khác” của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số, mà vợ, chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các điều 247, 248, 249, 250, 251 và 251 Bộ luật dân sự.... trong thời kỳ hôn nhân”

Như vậy, thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trước hết là các loại tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ, chồng có được. Tiền thưởng có thể là các loại tiền thưởng gắn liền với huân chương, huy chương, danh hiệu cao quý, bằng khen, giấy khen, tiền thưởng gắn với các công trình tim óc như tác phẩm, phát minh, sáng chế được thực hiện trong khuôn khổ lao động sáng tạo theo đơn hàng của người khác; tiền thưởng hoặc hiện vật thưởng do thực hiện xong một công việc theo sự phân công với kết quả tốt hoặc do thực hiện tốt một công việc có hứa thưởng; tiền thưởng đột xuất và bất ngờ do thực hiện tốt một công việc làm hài lòng người thưởng, dù người sau này không hứa thưởng trước.... Tiền trợ cấp có thể là các loại tiền trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp hưu trí, trợ cấp một lần khi thôi việc, trợ cấp chính sách, trợ cấp thương tật, mất sức, học bổng, trợ cấp đào tạo ..... Tiền trúng xổ số cũng có thể là các loại tiền có được do trúng thưởng bất kể tiền trúng thưởng này gắn liền với tài sản chung hay tài sản riêng. Ví dụ, cha mẹ chồng cho riêng chồng một sổ tiết kiệm ngoại tệ, tất nhiên, số ngoại tệ gốc được ghi nhận trong sổ tiết kiệm đó là tài sản riêng của chồng, nhưng nếu do kết quả của một cuộc xổ số mà số sổ tiết kiệm này trùng khớp với số trúng thưởng một số tiền nào đó thì số tiền đó là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ, trong chừng mực nào đó, có thể coi trúng thưởng như một trường hợp phát sinh hoa lợi đột biến, bât thường của tài sản gốc. Thế nhưng, nếu vậy thì tài sản

gốc phải không bị giảm sút chất liệu hoặc biến mất sau khi khối tài sản trúng thưởng xuất hiện. Trong một giả thiết khác, một người được tặng cho riêng một tờ vé số. ậ một thời điểm nào đó sau khi xổ số và trước khi lĩnh thưởng, không thể thiết lập được sự khác biệt giữa giá trị của tờ vé số và giá trị của giải thưởng. Tờ vé số trúng thưởng tự nó là một tài sản có giá trị thực ngang với giá trị của giải thưởng. Sau khi lĩnh thưởng, tờ vé số hết giá trị. Ta nói rằng, trong trường hợp này giá trị của giải thưởng là hình thức biểu hiện giá trị của tờ vé số sau khi xổ số. Bởi vậy, một cách lý thuyết, nếu tờ vé số thuộc tài sản riêng thì giải thưởng phải thuộc tài sản riêng và ngược lại.

Ngoài ra, Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP khi nhắc đến các thu nhập hợp pháp khác chỉ nhắc đến các loại tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà không nhắc đến các loại tài sản khác có được do thưởng như giải thưởng, thưởng bằng các hiện vật, quyền tài sản… Đây thực chất cũng là một loại tài sản có cùng nguồn gốc. Nếu thực hiện nguyên tắc áp dụng pháp luật cũng có thể coi đây là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Tuy nhiên, để hệ thống pháp luật được đầy đủ, cụ thể, thiết nghĩ pháp luật cũng cần có những quy định cụ thể.

Thu nhập hợp pháp khác cũng có thể hiểu là các hoa lợi, lợi tức thu được do việc khai thác tự nhiên hoặc khai thác pháp lý từ các loại tài sản của vợ chồng bao gồm cả tài sản chung và tài sản riêng như: cây con sinh ra từ cây mẹ, gia súc con sinh ra từ gia súc mẹ, cá con, trứng, tiền cho thuê nhà, tiền lãi tiết kiệm, lợi tức cổ phiếu, trái phiếu, tiền thu được từ việc cho phép sử dụng tác phẩm….Tuy nhiên, trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung thì kể từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Như vậy, nếu căn cứ vào quy định về thu nhập hợp pháp khác, nhiều ý kiến cho rằng các hoa lợi, lợi tức thu được từ khối tài sản riêng cũng thuộc sở hữu chung của

vợ chồng. Tuy nhiên, căn cứ vào quy định về chia tài sản chung và sử dụng phương pháp áp dụng, các ý kiến khác lại cho rằng hoa lợi, lợi tức có nguồn gốc liên quan tới tài sản riêng thì thuộc tài sản riêng của mỗi bên. Vấn đề này chưa được quy định cụ thể, rõ ràng trong pháp luật về hôn nhân gia đình.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Một vấn đề cần được chú ý là thu nhập hợp pháp ở đây cần phải có được trong thời kỳ hôn nhân. Nếu phát sinh ngoài thời kỳ hôn nhân thì bất kể nguồn gốc, công sức đóng góp của hai vợ chồng đối với tài sản đó như thế nào thì tài sản đó vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi bên. Đây là một căn cứ quan trọng cần chú ý, tránh việc nhầm lẫn.

Tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự như nhặt của rơi, của vô chủ, đào được tài sản, bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc, ... trong thời kỳ hôn nhân cũng thuộc tài sản chung của vợ chồng. Việc xác định thời điểm xác lập quyền sở hữu để làm căn cứ xác định tài sản đó thuộc tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng được căn cứ vào thời điểm xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ Luật dân sự. Căn cứ vào thời điểm này, nếu việc xác lập quyền sở hữu xảy ra trong thời kỳ hôn nhân thì dù tài sản đó do vợ hoặc chồng nhặt được, đào được, bắt được, được chiếm hữu trước hôn nhân thì tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng.

Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - 8

Thứ tư, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung:

Hiện nay, pháp luật về hôn nhân gia đình cũng không có những quy định cụ thể về khái niệm thế nào là tài sản được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung. Trong nhiều trường hợp, mặc dù cả vợ và chồng đều là những người được tặng cho hoặc thừa kế chung một tài sản nào đó. Tuy nhiên, việc được thừa kế hoặc tặng cho chung này là do mối quan hệ khác nhau của vợ và chồng đối với người tặng cho hoặc người để lại thừa kế tài sản. Ví dụ, trường hợp cha và mẹ cùng được gọi để nhận di sản do con chết

để lại, với tư cách là người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thứ nhất. Trong trường hợp này, rõ ràng vợ và chồng đều có phần quyền thừa kế của riêng mình, như mỗi người thừa kế theo pháp luật khác. Do đó, tài sản mà họ có được do cùng được gọi để nhận thừa kế theo pháp luật phải là tài sản thuộc sở hữu chung theo phần chứ không phải là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Như vậy, về cơ bản có thể nói khái niệm thừa kế chung chỉ sử dụng được như một căn cứ tạo lập một tài sản chung khi vợ và chồng cùng được hưởng di sản theo di chúc và di chúc quy định rằng tài sản được chuyển giao chung cho cả vợ và chồng; nếu không có quy định rõ ràng trong di chúc, vợ, chồng vẫn hưởng di sản theo di chúc với tư cách cá nhân và phần di sản mỗi người nhận được là của riêng mỗi người.

Tương tự như vậy việc xác định khi nào là tặng cho chung, khi nào là tặng cho riêng cũng cần phải được phân biệt rõ. Tài sản chỉ được coi là tặng cho chung cho vợ chồng khi trong hợp đồng tặng cho, chủ sở hữu phải tuyên bố tặng cho chung mà không phân biệt tỉ lệ phần tài sản cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng. Nếu trong hợp đồng tặng cho, mặc dù cả vợ và chồng đều là người được tặng cho nhưng chủ sở hữu đã “xác định” tỉ lệ tài sản từ trước cho mỗi bên vợ chồng thì về nguyên tắc, những tài sản đó phải thuộc thuộc tài sản riêng của vợ, chồng; chỉ là tài sản chung khi vợ, chồng tự nguyện nhập vào khối tài sản chung hay vợ chồng thỏa thuận đó là tài sản chung.

Thứ năm, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.

Đây là một quy định được khẳng định tại khoản 1, Điều 27, Luật HNGĐ năm 2000. Tuy nhiên, suy cho cùng, rất khó tìm cách lý giải sự tồn tại của một quy định đặc biệt như thế này chi phối quyền sử dụng đất trong luật về quan hệ tài sản của vợ chồng. Nếu quyền sử dụng đất có được do

hiệu lực của một giao dịch chuyển nhượng thì theo luật chung, quyền sử dụng đất ấy là tài sản chung do được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Nừu quyền sử dụng đất được giao có hoặc không có thu tiền sử dụng đất hoặc được cho thuê, thì đó cũng là một loại tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân và cũng là tài sản chung. Như vậy, rõ ràng dù có hay không có quy định này thì quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn vẫn là tài sản chung của vợ chồng, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của vợ hoặc chồng trừ khi vợ chồng có thỏa thuận khác. Có lẽ nhà làm luật cho rằng trong một số trường hợp, cơ quan giao đất hoặc cho thuê đất chỉ tính đến khả năng, điều kiện sử dụng đất của cá nhân người xin giao đất, xin thuê đất và chỉ quyết định giao đất cho cá nhân người đó hoặc chỉ giao kết hợp đồng thuê đất với cá nhân người đó: trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ có tên người đó mà không có tên vợ hoặc chồng của người đó. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích của hai bên vợ, chồng, các trường hợp xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền sử dụng đất, với tư cách là một loại tài sản có giá trị lớn đã được quy định rõ ràng trong luật. Tuy nhiên, thiết nghĩ vấn đề này cũng nên được xem xét, cân nhắc kỹ hơn.

Thứ sáu, các tài sản không có đủ chứng cứ xác định là tài sản riêng


Trong đời sống, thực tế cuộc sống chung giữa vợ chồng, sau nhiều năm tháng trong thời kỳ hôn nhân, nhiều khi là suốt đời, cho thấy, do quan hệ vợ chồng được xác lập dựa trên yếu tố tình cảm, yêu thương gắn bó giữa vợ chồng, khi cuộc sống hòa thuận, hạnh phúc, vợ chồng thường không phân biệt tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng. Cả vợ và chồng đều mong muốn sử dụng các loại tài sản nhằm đáp ứng nhu cầu chung của gia đình, của vợ chồng; giữa vợ chồng thường không phân biệt “ranh giới” giữa tài sản chung và tài sản riêng, không phân biệt “của anh, của tôi”. Chính vì vậy, thực tế giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng cho thấy nhiều trường hợp xác định đâu là tài sản chung của vợ chồng để chia,

đâu là tài sản riêng của vợ, chồng vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, do tính chất phức tạp của quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Vì đời sống chung của gia đình, nhiều trường hợp tài sản riêng của một bên đã được bảo đảm cho nhu cầu chung của gia đình mà không còn nữa; hoặc có sự chuyển hóa, trộn lẫn giữa các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng trong quá trình sử dụng dẫn tới các ranh giới (căn cứ) ban đầu về tài sản chung và tài sản riêng giữa vợ chồng không còn nữa và rất khó xác định. Xuất phát từ thực trạng đó, nhằm bảo đảm nguyên tắc công bằng và hợp lý, Luật HNGĐ năm 2000 đã dự liệu “Trường hợp không có chứng cứ, chứng minh tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”. Đây là nguyên tắc suy đoán về nguồn gốc tài sản của vợ chồng, lần đầu tiên được quy định trong Luật HNGĐ của Nhà nước ta.

Nguyên tắc này cũng khẳng định một căn cứ khác để xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với tài sản của vợ chồng đó là: Ngoài những tài sản riêng của vợ chồng, các tài sản còn lại nằm trong khối tài sản của vợ chồng thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng. Đây có lẽ là nguyên tắc được áp dụng nhiều hơn trong thực tế cuộc sống. Theo quy định tại điều 32, Luật HNGĐ năm 2000, tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và 30 của Luật HNGĐ năm 2000, đồ dùng, tư trang cá nhân. Như vậy, ngoài những tài sản trên, các tài sản thuộc sở hữu của vợ, chồng đều thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng.

- Thoả thuận của vợ chồng:


Luật HNGĐ năm 2000, lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật Việt Nam đã ghi nhận thỏa thuận của vợ chồng cũng là một căn cứ để xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng. Đây là một điểm tiến bộ mới, thể hiện quan điểm tôn trọng quyền tự do cá nhân của xã hội Việt Nam. Luật HNGĐ năm

1986 mặc dù cũng có quy định về việc nhập hay không nhập tài sản riêng của vợ hoặc chồng vào khối tài sản chung của vợ chồng nhưng lại được tiếp cận dưới góc độ là quyền nhập hoặc không nhập của vợ hoặc chồng chứ không phải là sự thỏa thuận của cả hai bên vợ chồng về tài sản chung của vợ chồng. Nói cách khác, mặc dù Luật HNGĐ năm 1986 có quy định về việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung nhưng dưới góc độ là quyền có tài sản riêng của vợ, chồng hơn là góc độ của một căn cứ để xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng. Chỉ đến Luật HNGĐ năm 2000, căn cứ này mới chính thức được thừa nhận cụ thể trong luật với quy định tài sản chung của vợ chồng cũng có thể là “những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 27 Luật HNGĐ, về nguyên tắc đây cũng chỉ là một căn cứ bổ trợ, bổ sung thêm trên cơ sở căn cứ xác lập là theo quy định của pháp luật. Theo đó, bên ngoài các tài sản mà pháp luật quy định là tài sản chung của vợ chồng, vợ chồng có quyền thỏa thuận với nhau về những tài sản khác thuộc quyền sở hữu của vợ, chồng là tài sản chung của vợ chồng và sự thỏa thuận này phải không được nhằm mục đích trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của vợ hoặc chồng.

Mặc dù vậy, pháp luật còn quy định về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân tại Điều 29 và 30 Luật HNGĐ năm 2000. Theo đó, khi hôn nhân tồn tại, vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người, phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Như vậy, sau khi xác định về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng trước hết được xác lập trước hết trên cơ sở quy định của pháp luật tại Điều 27, Luật HNGĐ lại cho phép vợ chồng có thể thỏa thuận thay đổi lại các quy định này và phân chia các tài sản chung được xác định trên cơ sở quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận các tài sản riêng là tài sản chung. Nói cách khác, khi hôn nhân đã tồn tại,

thỏa thuận của vợ chồng lại được coi là một căn cứ quan trọng, có vị trí hàng đầu trong việc xác định tài sản chung của vợ chồng. Đây là một vấn đề cần được xác định một cách rõ ràng, thống nhất trong pháp luật Việt Nam. Nếu thực sự thừa nhận thỏa thuận của vợ chồng là căn cứ quan trọng, có vị trí hàng đầu trong việc xác định tài sản chung của vợ chồng thì nên chăng pháp luật cũng phải công nhận thỏa thuận về tài sản chung của vợ chồng trước khi kết hôn và cho phép vợ chồng có thể thay đổi thỏa thuận này trong thời kỳ hôn nhân.

Việc quy định song song hai nguyên tắc như hiện nay sẽ tạo ra sự xung đột giữa hai quy định của Luật HNGĐ tại Điều 27 và Điều 29, 30. Vì trong trường hợp nếu vợ chồng thoả thuận chia hết các tài sản chung của vợ chồng thì sau khi chia liệu tài sản chung của vợ chồng có còn tồn tại và có được tiếp tục xác định theo Điều 27 của Luật HNGĐ hay không. Đặc biệt trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung để đầu tư kinh doanh, sản xuất, khi đó lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư, kinh doanh này (hoạt động duy nhất của vợ hoặc chồng) được coi là thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân và xác định là tài sản chung của vợ chồng hay là hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ chồng và được xác định là tài sản riêng của vợ, chồng?

2.2 Thực tiễn áp dụng các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng ở Việt Nam hiện nay

Kể từ khi Luật HNGĐ năm 2000 được ban hành cùng với các văn bản hướng dẫn, pháp luật về HNGĐ đã góp phần không nhỏ trong việc điều tiết các quan hệ hôn nhân gia đình trong đó có quan hệ sở hữu chung của vợ chồng. Qua xem xét thực tế đời sống hôn nhân gia đình liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng và thực tiễn xét xử các vụ án hôn nhân gia đình của Toà án chúng tôi nhận thấy có một số điểm thuận lợi và vướng mắc trong quá trình áp dụng các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng như sau:

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 11/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí