chồng theo pháp luật Việt nam hiện hành là chế độ cộng đồng tạo sản. Trong chế độ này, tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản mà vợ chồng tạo ra được trong thời kỳ hôn nhân cùng các hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản của hai vợ chồng. Đối với tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân sẽ thuộc quyền sở hữu riêng của người đó. Chế độ tài sản này được hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia lựa chọn vì vừa đảm bảo được lợi ích chung của cả gia đình đồng thời vẫn tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của từng cá nhân. Và chế độ tài sản này cũng tạo cho vợ chồng sự linh hoạt khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung cũng như sự độc lập trong việc định đoạt tài sản riêng của mỗi người từ đó đảm bảo cả quyền lợi của người thứ ba khi tham gia giao dịch với vợ, chồng.
2.1.2 Căn cứ phát sinh sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản
Kế thừa và phát triển các quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam 1986, Luật HN&GĐ Việt Nam 2000 đã dự liệu căn cứ, nguồn gốc, và thành phần các loại tài sản trong khối tài sản chung của vợ chồng. Các quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam 2000 về vấn đề tài sản chung của vợ chồng đã cụ thể và dễ vận dụng hơn nhiều so với Luật HN&GĐ Việt Nam 1986, ngoài việc dự liệu căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản chung của vợ chồng, nhà làm luật còn sử dụng cả nguyên tắc suy đoán để xác định tài sản chung của vợ chồng nhằm đảm bảo cho lợi ích chung của gia đình và của vợ chồng, xong về cơ bản, căn cứ để xác định tài sản chung của vợ chồng vẫn là dựa vào thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc tài sản. Về nguyên tắc, căn cứ xác lập quyền tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng cũng chính là các căn cứ xác lập tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
Căn cứ thứ nhất đó là dựa vào thời điểm phát sinh tài sản, quan hệ tài sản chung giữa vợ và chồng được xác định theo thời kỳ hôn nhân. Khoản 1 điều 27 LHN&GĐ đã quy định rõ tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng được xác định là “tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”. Điều này có nghĩa là mọi tài sản mà vợ hoặc chồng tạo ra hoặc có được một cách hợp pháp
trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung (trừ trường hợp vợ, chồng được tặng cho riêng hoặc thừa kế riêng). Thời kỳ hôn nhân chính là yếu tố đặc biệt quan trọng để xác định quan hệ sở hữu chung của vợ, chồng đối với tài sản. Nếu giữa hai người nam và nữ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp thì giữa họ không thể tồn tại quan hệ sở hữu chung của vợ chồng. Đồng thời bản thân vợ và chồng đều có thể có tài sản riêng hình thành trước hoặc sau thời kỳ hôn nhân còn về nguyên tắc do luật định thì mọi tài sản mà vợ hoặc chồng tạo ra hoặc có được một cách hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ, chồng. Thời kỳ hôn nhân được xác định là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân (khoản 7 điều 8 LHN&GĐ 2000). Vậy xác định ngày đăng ký kết hôn là ngày nào? Theo quy định về thủ tục đăng ký kết hôn thì “Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải có mặt. Đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận kết hôn. Hai bên nam, nữ ký vào Giấy chứng nhận kết hôn và sổ đăng ký kết hôn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên vợ, chồng một bản chính Giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình” (khoản 3 Điều 18 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch). Như vậy ngày đăng ký kết hôn được hiểu là ngày hai bên nam, nữ đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành đăng ký theo quy định của pháp luật, ngày đó cũng chính là ngày ghi trong Giấy chứng nhận kết hôn và sổ đăng ký kết hôn. Việc xác định chính xác ngày đăng ký kết hôn rất quan trọng để xác định tài sản nào mà vợ, chồng có được sau ngày đó là tài sản chung. Ví dụ: năm 2005 ông A sáng tạo ra một dụng cụ bóc lạc rất hiện đại, ngày 01/01/2007 ông A nộp đơn đăng ký sáng chế cho Cục SHTT. Sau đó ông A kết hôn với bà B và giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của ông A và bà B ghi ngày 10/8/2007, cùng này đó ông A được Cục SHTT cấp bằng độc quyền sáng chế. Theo quy định tại khoản 2 điều 93 LSHTT 2005 thì bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực kể từ ngày cấp bằng nên các quyền tài sản của ông A
đối với sáng chế do ông A tạo ra cũng phát sinh kể từ ngày 10/8/2007. Vậy các quyền tài sản đó có được coi là tài sản chung của vợ chồng ông A, bà B hay không? Do thời kỳ hôn nhân được tính bắt đầu từ ngày đăng ký kết hôn nên ngày 10/8/2007 được coi là bắt đầu thời kỳ hôn nhân, các tài sản mà ông A, bà B có được kể từ ngày này được coi là tài sản chung. Do đó các quyền tài sản phát sinh từ bằng độc quyền sáng chế mà ông A được cấp là tài sản chung vợ chồng.
Để xác định được thời kỳ hôn nhân thì còn phải xác định chính xác thời điểm ngày chấm dứt hôn nhân là ngày nào. Theo luật định thời kỳ hôn nhân chấm dứt khi có sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật đó là:
- Khi vợ, hoặc chồng chết hoặc khi quyết định của Tòa án tuyên bố vợ, chồng chết có hiệu lực pháp luật.
- Trường hợp vợ, chồng còn sống thì hôn nhân chấm dứt khi quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Có thể bạn quan tâm!
- Vấn Đề Điều Chỉnh Pháp Luật Đối Với Quan Hệ Sở Hữu Chung Của Vợ, Chồng Đối Với Quyền Tài Sản
- Pháp Luật Việt Nam Về Sở Hữu Chung Của Vợ Chồng Đối Với Quyền Tài Sản Qua Các Giai Đoạn Phát Triển
- Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Từ Năm 1945 Đến Năm 2000
- Sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản theo pháp luật ở Việt Nam - 10
- Quyền Và Nghĩa Vụ Của Vợ Chồng Đối Với Quyền Tài Sản Thuộc Sở Hữu Chung Của Vợ Chồng
- Các Trường Hợp Chấm Dứt Sở Hữu Chung Của Vợ, Chồng Đối Với Quyền Tài Sản
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Ngày một trong hai bên vợ, chồng chết hoặc cả hai bên cùng chết được tính theo ngày ghi trên giấy báo tử (điều 22 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch). Đối với người bị Tòa án tuyên bố chết thì ngày chết của họ căn cứ vào ngày Tòa án xác định trong quyết định tuyên bố một người đã chết (khoản 2 điều 81 BLDS 2005); nếu không xác định được ngày chết của người đó thì quan hệ vợ, chồng chấm dứt từ ngày quyết định của Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng chết có hiệu lực pháp luật.
Đối với trường hợp vợ, chồng xin ly hôn thì ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân là ngày bản án, quyết định cho ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Một vấn đề phát sinh đó là khi vợ chồng ly hôn sẽ có việc phân chia tài sản chung. Vợ, chồng có thể thỏa thuận về việc chia tài sản chung và yêu cầu tòa án ghi nhận trong bản án, quyết định của tòa án về việc ly hôn hoặc nếu không thỏa thuận được thì vợ, chồng có thể yêu cầu tòa án chia tài sản chung. Từ ngày quyết định chia tài sản chung được tòa án phân chia đến ngày bản án, quyết định cho cho ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật là một khoảng thời gian, nếu trong thời gian đó xuất hiện một khối tài sản mới thì khối tài sản đó có được coi là tài sản chung không và khối
tài sản đó sẽ được phân chia như thế nào? Về nguyên tắc khối tài sản mới phát sinh đó vẫn thuộc tài sản chung của vợ chồng và phải được phân chia cho mỗi người một nửa. Nếu hai vợ chồng có thể thỏa thuận được thì không phát sinh vấn đề nhưng nếu hai vợ, chồng không thỏa thuận được thì họ có quyền yêu cầu tòa án chia tài sản chung của vợ, chồng nữa hay không?
Một trong những yếu tố để xác định thời kỳ hôn nhân làm căn cứ xác định quan hệ tài sản chung của vợ chồng đó là cuộc hôn nhân đó phải hợp pháp. Muốn biết một cuộc hôn nhân hợp pháp hay không ta cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Để được coi là tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp thì việc kết hôn phải tuân thủ đúng và đủ các điều kiện kết hôn và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận theo đúng thủ tục luật định. Kể cả khi hai bên nam nữ đã đăng ký kết hôn theo đúng thủ tục pháp luật quy định nhưng lại vi phạm một trong những điều kiện kết hôn theo quy định tại điều 9 và điều 10 LHN&GĐ 2000 thì sau này các chủ thể theo quy định tại điều 15 LHN&GĐ 2000 có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố hủy việc kết hôn trái pháp luật. Nếu các bên kết hôn trái pháp luật thì không được công nhận là hôn nhân hợp pháp thì giữa hai bên nam, nữ sẽ không thể tồn tại quan hệ sở hữu chung của vợ và chồng đối với tài sản.
Tuy nhiên do yếu tố lịch sử để lại nên pháp luật vẫn quy định một số ngoại lệ áp dụng đối với tình trạng hôn nhân thực tế sau khi LHN&GĐ năm 2000 có hiệu lực. Các trường hợp đó bao gồm:
- Đối với trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trước ngày 03/1/1987, khi LHN&GĐ năm 2000 có hiệu lực, dù họ có đăng ký kết hôn hay không thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được pháp luật công nhận và thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân được tính từ ngày họ chung sống với nhau như vợ, chồng chứ không phải ngày đăng ký kết hôn (nếu họ có đăng ký kết hôn).
- Đối với trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 (chưa đăng ký kết hôn) mà có đủ điều kiện kết hôn thì họ có nghĩa vụ phải đi đăng ký kết hôn trước ngày 02/01/2003. Nếu trước ngày 02/01/2003, dù họ có đi đăng ký kết hôn hay không thì nếu có yêu cầu ly
hôn tòa án vẫn công nhận hôn nhân của họ và thời điểm phát sinh quan hệ hôn nhân là từ ngày họ chung sống với nhau như vợ, chồng. Nếu từ ngày 02/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn theo đúng thủ tục luật định thì pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng giữa họ, do đó không tồn tại quan hệ sở hữu chung giữa vợ và chồng. Nếu trong thời gian chung sống với nhau họ có tạo lập được tài sản chung thì sẽ giải quyết như sau: tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con (điều 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội ngày 09 tháng 6 năm 2000 về việc thi hành LHN&GĐ; điều 17 LHN&GĐ 2000). Nếu từ ngày 02/01/2003 họ mới đi đăng ký kết hôn và nếu sau đó có yêu cầu về ly hôn hoặc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân thì Tòa án chỉ công nhận quan hệ vợ chồng giữa họ kể từ ngày đăng ký kết hôn chứ không phải từ ngày họ chung sống như vợ, chồng.
Các trường hợp ngoại lệ nêu trên là do luật định nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của những người đã chung sống như vợ, chồng trước khi LHN&GĐ 2000 có hiệu lực và để giải quyết những khó khăn, vướng mắc mà Tòa án gặp phải, đồng thời tạo cơ sở pháp lý vững chắc để Tòa án có thể căn cứ vào đó để giải quyết các vụ việc liên quan đến “hôn nhân thực tế”. Chính vì thời điểm công nhận quan hệ vợ chồng trong mỗi trường hợp nêu trên là khác nhau nên những người áp dụng pháp luật cần phải lưu ý xác định chính xác thời điểm bắt đầu quan hệ hôn nhân hợp pháp từ đó mới có thể xem xét chính xác tài sản nào là tài sản chung của vợ, chồng.
Căn cứ thứ hai để xác định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ, chồng là dựa vào cách thức tạo lập quyền tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản chung của vợ, chồng có thể có được do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và là những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Đây là căn cứ phát sinh tài sản chung phổ biến nhất của vợ chồng. Sau khi kết hôn, quan hệ hôn nhân được xác lập, vợ chồng cùng chung sức, đồng lòng trong việc tạo dựng tài sản để xây dựng và duy trì gia đình, cung cấp những nhu cầu của
đời sống chung, đáp ứng các nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau cũng như chăm sóc, giáo dục con cái. Hành vi tạo ra tài sản được hiểu là vợ chồng dựa theo công việc, chuyên môn của mình tạo ra tài sản bằng chính sức lao động của mình hay sử dụng tài sản chung để thuê người khác tạo ra tài sản đó, hoặc cũng có thể dùng tài sản chung để xác lập quyền sở hữu đối với tài sản khác thông qua các hợp đồng cụ thể. Tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân có thể là vật, là giấy tờ có giá, tiền hoặc các quyền tài sản. Tuy nhiên, khi hiểu quyền tài sản theo nghĩa rộng thì quyền sở hữu cũng chính là quyền tài sản nên tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân dưới bất cứ dạng nào cũng được coi là mang lại quyền tài sản cho vợ, chồng. Do đó hành vi tạo ra quyền tài sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể có thể được hiểu là bao gồm các hành vi sau:
- Vợ, chồng thông qua công việc, chuyên môn của mình trực tiếp tạo ra tài sản bằng chính sức lao động của mình như sáng tạo ra một tác phẩm văn học, nghệ thuật từ đó phát sinh quyền tác giả đối với tác phẩm mà họ tạo ra; viết ra một phần mềm hoặc tạo ra bất cứ một tài sản nào thông qua công việc của mình đều làm phát sinh quyền tài sản đối với các thành quả lao động của họ.
- Các quyền tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân có thể là các quyền tài sản có được thông qua việc ký kết các hợp đồng như các hợp đồng mua bán quyền tài sản, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng cho vay… Thông qua các hợp đồng đó vợ, chồng có thể có được các vật quyền và các trái quyền đối với các chủ thể có nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
- Quyền tài sản mà vợ, chồng có được chồng thời kỳ hôn nhân có thể là “thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”. Theo từ điển tiếng Việt, “thu nhập” được hiểu là “nhận được tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động nào đó”. Như vậy thu nhập của vợ chồng là những lợi ích vật chất mà vợ chồng có được do tham gia vào hoạt động lao động, sản xuất, kinh doanh. Các thu nhập này có thể được thể hiện dưới dạng quyền tài sản ví dụ: phần vốn góp của vợ, chồng trong các công ty có tư cách pháp nhân mang lại các quyền tài sản cho chủ sở hữu như được quyền trả lãi
theo phần vốn góp… Bên cạnh đó tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn “những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng có thể là tiền lương, tiền thưởng, tiền công, tiền trợ cấp hay tiền lãi trong hoạt động kinh doanh, sản xuất, tiền trúng xổ số mà vợ, chồng có được trong thời kì hôn nhân”. Đó cũng có thể là tài sản mà vợ, chồng được xác lập theo quy định của BLDS năm 2005 như xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu (Điều 247); xác lập sở hữu đối với vật bị chôn dấu, bị chìm đắm được tìm thấy (Điều 248); xác lập sở hữu đố với vật do người khác đánh rơi, bỏ quên (Điều 249); xác lập sở hữu đối với gia xúc, gia cầm bị thất lạc (Điều 250, Điều 251); xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước (Điều 252) trong thời kỳ hôn nhân.” Theo cách quy định này của NQ 02 thì dường như các thu nhập hợp pháp khác được thể hiện là tiền và tài sản hữu hình chứ không có tài sản vô hình. Tuy nhiên thuật ngữ thu nhập cần phải được hiểu rộng hơn là bất cứ lợi ích vật chất nào mà vợ, chồng thu được kể cả là các quyền tài sản chứ không chỉ có tiền và tài sản hữu hình. Cách giải thích của NQ 02 của HĐTP như trên dường như vẫn chưa đầy đủ và bao quát hết các trường hợp vì thu nhập hợp pháp của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân còn có thể là tài sản mà vợ, chồng được xác lập theo quy định của các văn bản pháp luật khác như luật đất đai, luật SHTT, luật khai thác vào bảo vệ rừng, luật khoáng sản. Ví dụ: trong lĩnh vực SHTT, vợ hoặc chồng chỉ có thể xác lập quyền đối với chỉ dẫn địa lý khi được Nhà nước trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý với điều kiện họ là người tiến hành việc sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tại địa phương tương ứng và đưa sản phẩm đó ra thị trường. Đây là một trong các trường hợp quyền tài sản được tạo lập do pháp luật quy định mà theo cách giải thích của NQ 02 thì dường như là chưa có.
- Riêng quyền sử dụng đất được coi là một loại tài sản đặc biệt nên LHN&GĐ 2000 đã quy định riêng về quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung của vợ, chồng, theo đó thì “Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là
tài sản chung của vợ, chồng”. Theo quy định của BLDS 2005 và pháp luật đất đai thì đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Để thực hiện quyền sở hữu của mình, nhà nước giao đất đai cho người dân sử dụng, đó là quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất chính là một quyền tài sản và các chủ thể thực hiện quyền của mình trên đối tượng là tài sản thuộc sở hữu của người khác.
Do cách quy định của điều luật là “Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ, chồng” mà không có dấu phẩy ở giữa vợ, và chồng nên có quan điểm cho rằng LHN&GĐ năm 2000 không có sự tách bạch riêng giữa vợ, chồng nên quyền sử dụng đất phải do hai vợ chông cùng có được trong thời kỳ hôn nhân mới là tài sản chung còn nếu mỗi người có được riêng (ví dụ được cơ quan cấp nhà gắn liền với quyền sử dụng đất hoặc giao cho quyền sử dụng đất) thì là tài sản riêng. Tuy nhiên cách hiểu này quá máy móc, chẻ câu chữ. Trong trường hợp này nên hiểu quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng hoặc cả hai có được trong thời kỳ hôn nhân thì đều là tài sản chung. Cách giải thích này là hợp lý và phù hợp với tính chất của quan hệ hôn nhân, đảm bảo được quyền lợi của vợ, chồng đối với một loại tài sản có giá trị rất lớn đó là quyền sử dụng đất.
Theo các quy định của LHN&GĐ năm 2000 và LĐĐ năm 2003 thì quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được có thể thông qua các căn cứ sau:
- Được Nhà nước giao hoặc cho thuê đất
- Nhận chuyển nhượng, nhận quyền sử dụng đất khi xử lý hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất để thu hồi nợ
- Được tặng cho, thừa kế chung
- Quyền sử dụng đất có được theo bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
Cũng theo quy định tại khoản 1 điều 27 LHN&GĐ 2000 thì “quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận”. Căn cứ vào câu chữ của điều luật ta có thể hiểu rằng không giống với các loại tài sản khác, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng được