Trong trường hợp biên bản ghi chưa đầy đủ, chưa chính xác nội dung câu hỏi, NBC có quyền đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ghi ý kiến của mình trước khi ký tên vào biên bản.
Thứ năm, khi NBC đề nghị, Điều tra viên phải xác nhận thời gian làm việc thực tế của NBC tham gia tố tụng trong quá trình điều tra vụ án.
Như vậy BLTTHS năm 2015, Thông tư 46/2019/TT-BCA, Thông tư liên tịch 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC quy định rất cụ thể và mở rộng hơn quyền có mặt của NBC khi lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can của Cơ quan điều tra đó là được quyền hỏi người bị buộc tội trong buổi làm việc này. Quy định trên có giá trị rất lớn đối với hoạt động bào chữa của NBC. Dựa vào các chứng cứ và hướng điều tra của cơ quan điều tra, đối chiếu với các buổi làm việc riêng với thân chủ của mình, NBC có thể đánh giá được tổng quan vụ án, đặt những câu hỏi phản biện trong buổi lấy lời khai, lấy cung giúp cho bản thân đồng thời giúp cơ quan điều tra tìm ra những điều bất hợp lý, nhanh chóng xác định được sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, khi thực hiện hoạt động phúc cung bị cáo, kiểm sát viên cũng phải thông báo cho NBC và NBC có quyền được tham gia và được hỏi bị cáo trong buổi làm việc này.
2.1.2.3. Quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu Quyền thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật:
BLTTHS năm 2015 mở rộng chủ thể có quyền thu thập chứng cứ là NBC chứ không chỉ là các CQTHTT như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án. Với việc cho phép NBC tham gia thu thập chứng cứ đã tạo điều kiện để việc phát hiện và xử lý tội phạm được nhanh chóng, góp phần đáng kể trong việc tạo được sự bình đẳng giữa người buộc tội và gỡ tội, bình đẳng trong tranh tụng tại phiên toà và có thể nói đây là bước đột phá trong tư duy về cải cách tư pháp trong TTHS.
Về hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật của NBC, BLTTHS năm 2015 bổ sung quyền thu thập chứng cứ của NBC quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 73 và Điều 81. Như vậy đây là cơ sở pháp lý giúp cho NBC tự mình thu
thập tài liệu, chứng cứ hoặc có thể đề nghị các CQTHTT khác thu thập chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Việc bổ sung quyền thu thập chứng cứ của NBC, về cơ bản đảm bảo quyền của người bị buộc tội và còn giúp các CQTHTT giải quyết vụ án được toàn diện, khách quan và nhanh chóng.
Khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2015 quy định cách thức thu thập chứng cứ của NBC, cụ thể:
NBC thu thập chứng cứ thông qua việc gặp người mà mình bào chữa được quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 như đã phân tích ở mục 2.2.1. Tại cuộc gặp này, NBC sẽ tạo được những ảnh hưởng tích cực đến tâm lý của người bị buộc tội, đưa ra các tư vấn pháp lý cho người bị buộc tội để họ chấp nhận nói ra sự thật vụ án hay các tình tiết mà họ biết được. Ngoài ra, NBC còn được quyền chủ động gặp bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án. Đối với trường hợp bị hại, do đây là đối tượng bị thiệt hại hoặc bị đe dọa thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nên có thể những thông tin mà họ cung cấp thường gây bất lợi cho người bị buộc tội; đối với người làm chứng thì những thông tin họ cung cấp sẽ mang tính khách quan hơn. Với quy định này, BLTTHS năm 2015 đã tạo cơ hội cho NBC trong phạm vi khả năng của mình có thể thu thập chứng cứ qua nhiều “kênh” thông tin khác nhau, dù bất lợi hay có lợi cho người bị buộc tội chúng đều có những ảnh hưởng nhất định đến hướng bào chữa của NBC. Ngoài ra, điều luật cũng cho phép NBC “hỏi” và “nghe” họ trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án. Có thể thấy, đây là một hình thức thu thập chứng cứ tương tự như hoạt động lấy lời khai. Tuy nhiên, khác với các cơ quan có thẩm quyền THTT, hoạt động lấy lời khai được quy định thành một trình tự, thủ tục riêng, đối với NBC thì việc thu thập chứng cứ sẽ được tiến hành theo khả năng của họ. Vậy nên để đảm bảo giá trị của chứng cứ, biên bản thu thập chứng cứ cần thể hiện đầy đủ thời gian, địa điểm, họ tên người được hỏi, tư cách trả lời và nội dung mà họ trình bày, phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người cung cấp lời khai.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Quy Định Về Người Bào Chữa Và Quyền Của Người Bào Chữa Trong Tố Tụng Hình Sự
- Kinh Nghiệm Lập Pháp Về Quyền Của Người Bào Chữa Trong Tố Tụng Hình Sự Của Một Số Nước
- Về Thời Điểm Phát Sinh Quyền Của Người Bào Chữa
- Quyền Đề Nghị Tiến Hành Hoạt Động Tố Tụng Theo Quy Định Của Bltths; Đề Nghị Triệu Tập Người Làm Chứng, Người Tham Gia Tố Tụng Khác, Người
- Ta Có Thể Xét Xử Bị Cáo Theo Khoản Khác Với Khoản Mà Vks Đã Truy Tố Trong Cùng Một Điều Luật.
- Yêu Cầu Bảo Đảm Tính Tranh Tụng Trong Hoạt Động Tố Tụng Hình Sự
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
NBC thu thập chứng cứ thông qua đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên quan đến việc bào chữa.
Như vậy, căn cứ vào quy định mới này NBC có quyền tham gia, xem, trích tất cả các tài liệu, chứng cứ trong quá trình điều tra vụ án của cơ quan có thẩm quyền THTT để phục vụ cho việc bào chữa của mình. Đây là quy định mang tính đột phá, nâng cao vị thế pháp lý của NBC. Tuy nhiên, quy định này không đảm bảo tính khả thi vì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể những thông tin nào được phép cung cấp, những thông tin nào mang tính bảo mật cần bảo vệ.
Hoạt động thu thập chứng của NBC còn thông qua các hoạt động tố tụng được quy định tại điểm b, c khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 đó là có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; có mặt trong các hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và các hoạt động điều tra khác.
Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật:
Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật của NBC quy định tại điểm h Điều 73 BLTTHS năm 2015 có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, đồng thời giúp CQTHTT đánh giá khách quan hành vi mà bị can, bị cáo đã thực hiện, kết luận và giải quyết vụ án. Những chứng cứ, tài liệu mà NBC đưa ra để xem xét về giá trị chứng minh phải có tính chất gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Trong giai đoạn điều tra, NBC có thể phát hiện và thu thập những chứng cứ, tài liệu, đồ vật để làm chứng cứ gỡ tội cho người bị buộc tội mà cơ quan điều tra chưa phát hiện được. Khi đó NBC có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu cơ quan điều tra tiếp nhận, xem xét, đánh giá để có thể đưa vào hồ sơ vụ án. Từ đó giúp cơ quan điều tra đưa ra những nhận xét, kết luận chính xác, khách quan đầy đủ và toàn diện hơn về vụ án.
Điều 26 BLTTHS năm 2015 “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rò sự thật khách quan của vụ án. …”. Theo quy định này thì NBC có quyền bình đẳng với NTHTT trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật. Đây không chỉ là điều luật quy định về một quyền của NBC mà còn là nguyên tắc cơ bản trong
luật TTHS.
Khoản 2 Điều 81 BLTTHS năm 2015 quy định “Tuỳ từng giai đoạn tố tụng, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, người bào chữa phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án…”. Với quy định này, NBC được quyền cũng như phải có nghĩa vụ đưa ra những chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà mình thu thập được để đưa vào hồ sơ vụ án.
Thông tư 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 cũng quy định về trách nhiệm của CQTHTT trong việc đảm bảo cho NBC thực hiện quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật. Cụ thể, NBC thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu liên quan đến việc bào chữa và giao cho cơ quan đang thụ lý vụ án thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải lập biên bản giao nhận, đưa vào hồ sơ vụ án. Trường hợp phát hiện NBC thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác hoặc tiết lộ bí mật điều tra thì tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, cơ quan đang thụ lý vụ án phải nhắc nhở, nếu vi phạm nghiêm trọng thì có biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật. Trường hợp NBC đưa ra yêu cầu, nếu thấy yêu cầu có liên quan đến việc bào chữa hoặc liên quan đến việc giải quyết vụ án thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra lập biên bản ghi nhận yêu cầu của NBC.
Quyền đưa ra yêu cầu:
Những yêu cầu mà NBC đưa ra phải nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội hoặc để đảm bảo cho NBC thực hiện việc gỡ tội phù hợp với quyền và nghĩa vụ của NBC mà pháp luật quy định. Đồng thời, NBC cũng có quyền yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục những thiếu sót trong hoạt động điều tra khi cần thiết như trưng cầu giám định, triệu tập người làm chứng, tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra…
Khoản 3 Điều 81 BLTTHS năm 2015 quy định “Trường hợp không thể thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì NBC có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập”. Quy định mang tính tiến bộ và có ý nghĩa rất tích cực nhằm tạo điều kiện tối đa để NBC thực hiện tốt quyền thu thập chứng cứ mà nhà nước trao cho họ, với mong muốn tạo
ra sự cân bằng cần thiết giữa chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội. Tuy nhiên, quy định này hiện nay chỉ dừng lại ở việc ghi nhận nội dung mà chưa thật sự tạo ra thế “cân bằng” như mong muốn. Bởi lẽ, thực tế NBC sau khi tìm đủ mọi cách nhưng vẫn không thể thu thập được chứng cứ mà theo họ là cần thiết, NBC mới chọn giải pháp cuối cùng là đề nghị sự hỗ trợ của CQTHTT có thẩm quyền. Nhưng nếu CQTHTT có thẩm quyền khi tiếp nhận đề nghị của NBC mà thực hiện một cách chậm chạp hoặc triển khai mang tính lấy lệ thì kết quả thu thập chứng cứ có được như mong muốn không? Hoặc họ nêu ra những lí do trở ngại nào đó mà không thể thực hiện được theo yêu cầu. Để quy định này đi vào thực tiễn cuộc sống, tạo niềm tin cho người dân nói chung và NBC nói riêng vào sự công minh của pháp luật, cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền THTT thiếu thiện chí, cố ý không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của NBC mà không có lý do chính đáng, trừ trường hợp chứng cứ, tài liệu đó thuộc bí mật nhà nước hoặc thuộc trường hợp pháp luật quy định không được cung cấp.
Điều 82 BLTTHS năm 2015 và Thông tư 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 cũng quy định về trách nhiệm của CQTHTT trong việc đảm bảo cho NBC thực hiện quyền yêu cầu được đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án. Cụ thể, trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra Bản kết luận điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc Quyết định đình chỉ điều tra cho bị can, NBC. Sau khi kết thúc điều tra, nếu NBC đề nghị được đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa, nếu hồ sơ vụ án đang thuộc quyền quản lý của Cơ quan điều tra thì Cơ quan điều tra phải tạo điều kiện thuận lợi cho NBC thực hiện yêu cầu này. Điều tra viên bố trí cho NBC đọc, ghi chép, sao chụp tại liệu tại phòng làm việc thuộc trụ sở Cơ quan điều tra. Trong quá trình NBC đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giám sát chặt chẽ. Việc sao chụp tài liệu do NBC thực hiện. Sau khi đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu, NBC phải bàn giao nguyên trạng hồ sơ vụ án cho cơ quan đã cung cấp hồ sơ. Nếu để mất, thất lạc, hư hỏng tài liệu, hồ sơ vụ án thì tuỳ tính chất mức độ vi phạm mà xử lý theo quy định của pháp luật. Việc đọc, ghi chép hoặc sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án
có liên quan đến việc bào chữa của NBC phải được lập thành biên bản ghi nhận, tài liệu giao cho NBC phải có bản thống kê các tài liệu kèm theo.
2.1.2.4. Quyền được trình bày ý kiến về chứng cứ, sử dụng chứng cứ; yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ; giám định bổ sung, giám định lại, định giá tài sản.
Đây là quyền mới và quan trọng của Người bào chữa, được Bộ luật TTHS 2015 sửa đổi và bổ sung, được đánh giá là một trong những bước tiến dài của nền lập pháp tố tụng hình sự trong việc mở rộng các quyền bào chữa và tạo điều kiện nhằm nâng cao vai trò tranh tụng cho luật sư.
Khi tham gia tố tụng, với vai trò, vị trí là người bảo bào chữa, Luật sư có quyền và có nghĩa vụ phải đánh giá chứng cứ theo các nguyên tắc chung. Trong đó nhấn mạnh luật sư có quyền thu thập và đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật, liên quan; củng cố các chứng cứ gỡ tội; chứng minh các yếu tố giảm mức độ lỗi, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và trách nhiệm bồi thường dân sự, mức bồi thường thiệt hại, bao gồm thiệt hại vật chất, tinh thần, tài sản… cũng như giảm nhẹ các biện pháp bảo đảm bồi thường cho người bị buộc tội. Bên cạnh đó, luật sư có quyền đề nghị giảm mức hình phạt; trình bày ý kiến để phản biện lại ý kiến của KSV và người bị hại để bào chữa theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo.
Với các trường hợp nghi ngờ tính xác thực của chứng cứ (bao gồm cả tính khách quan, tính hợp pháp và tính liên quan của chứng cứ), Người bào chữa có quyền yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ; giám định bổ sung, giám định lại, định giá tài sản theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
* Đối với nhóm quyền bào chữa đại diện (nhóm 1):
2.1.2.5. Quyền được thông báo về thời gian, địa điểm lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ khi hỏi cung bị can, phúc cung bị cáo
Đây là một quyền quan trọng của người bị buộc tội được quy định tại Khung nguyên tắc bảo hộ người bị giam giữ hoặc phạt tù dưới mọi hình thức. Đây là Nghị quyết số 43/173 ngày 09-12-1998 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
theo đó Liên Hợp Quốc đề ra các nguyên tắc nhằm bảo vệ con người chống lại sự bức cung, nhục hình, được thông báo về việc bị bắt giữ thể hiện tại: Nguyên tắc 10: Bất cứ ai bị bắt giữ sẽ được thông báo tại thời điểm bắt giữ lý do bắt giữ anh ta và sẽ được thông báo ngay lập tức về bất kỳ cáo buộc nào chống lại anh ta.
Nhóm quyền này có ý nghĩa trong hoạt động nghề nghiệp của Người bào chữa, quy định tại điểm h, i, k khoản 1 điều 73 BLTTHS 2015, đây được coi là nhóm quyền quan trọng mang tính then chốt thể hiện vị thế bình đẳng cho Luật sư trong quá trình tham gia tố tụng. Nhóm quyền này giúp Người bào chữa tìm ra những chứng cứ gỡ tội để chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ trách nhiệm cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can.
Khi người bị buộc tội có luật sư bào chữa (hoặc trong trường hợp bắt buộc phải chỉ định luật sư bào chữa) thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo cho Luật sư – người bào chữa về thời gian, địa điểm lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ và thông báo về thời gian hỏi cung bị can, thông báo về thời gian phúc cung bị cáo.
Sau khi nhận được thông báo về thời gian địa điểm tiến hành tố tụng, người bào chưac có sự chuẩn bị, sắp xếp nhanh, lên kế hoạch cho việc tham gia vào các hoạt động tố tụng, để buổi làm việc đạt hiệu quả trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội.
2.1.2.6. Quyền được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa.
Luật sư có quyền xem các biên bản về hoạt động tố tụng mà mình tham gia, quyền này xuất phát từ việc thực hiện quyền có mặt khi CQĐT hỏi cung bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác. Trước khi kết thúc điều tra Luật sư chỉ đươc xem các biên bản mà mình có mặt trong các hoạt động điều tra đó. Các biên bản chính là nguồn chứng cứ quy định tại BLTTHS, từ nội dung phản ánh trong đó có thể rút ra chứng cứ giúp Luật sư thực hiện nhiệm vụ bào chữa hoặc bảo vệ của mình. Quyền xem các biên bản giúp Luật sư kiểm tra, xác định nội dung liên quan có phản ánh đúng thực tế vụ án và kết quả hoạt động điều tra mà mình đã tham gia hay không. Nếu xác định nội dung biên bản phản ánh
không đúng thực tế có thể gây bất lợi cho người mà mình bào chữa thì Luật sư có quyền yêu cầu ĐTV sửa chữa, bổ sung vào biên bản nếu yêu cầu chính đáng của Luật sư không được đáp ứng thì họ có quyền từ chối ký vào biên bản, đảm bảo được tính dân chủ và công minh trong hoạt động này.
2.1.2.7. Quyền được đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
Nhóm quyền này quy định tại điểm e khoản 1 điều 73 BLTTHS 2015, góp phần đảm bảo nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án. Đảm bảo sự vô tư khách quan của người tiến hành tố tụng khi tiến hành các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra vụ án, qua đó đảm bảo các quyết định tố tụng mà họ đưa ra chính xác, khách quan. Nhóm quyền còn góp phần đảm bảo quyền và lợi ích của người được bào chữa. Trong nhóm quyền thay đổi, quan trọng nhất là quyền thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vì sự không vô tư khách quan trong hoạt động của những người này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của vụ án, hệ lụy của việc không thay đổi người tiến hành tố tụng khi họ không khách quan trong quá trình giải quyết vụ án dẫn đến tình trạng án oan, sai, bỏ lọt tội phạm hoặc mức hình phạt chưa tương xứng với hành vi của mỗi loại tội phạm.
2.1.2.8. Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Các quyền nói trên liên quan đến quyền bào chữa của người bào chữa sẽ trở nên vô nghĩa nếu người bào chữa không có quyền khiếu nại. Khi tham gia tố tụng, nếu phát hiện thấy quyết định tố tụng hoặc hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vi phạm pháp luật, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội thì người bào chữa có quyền khiếu nại về những quyết định và hành vi tố tụng đó. người bào chữa thực hiện một ý nghĩa lớn khi đại diện cho khách hàng thực hiện quyền khiếu nại, đây là một phương thức đấu tranh bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng chính hành vi chủ động khi phát hiện sai phạm của cơ quan và người tiến hành