Ta Có Thể Xét Xử Bị Cáo Theo Khoản Khác Với Khoản Mà Vks Đã Truy Tố Trong Cùng Một Điều Luật.

VAHS đã thuận lợi, không còn gặp khó khăn khi tiếp xúc với bị cáo (đang bị tạm giam) như trước đây.

Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn một số vụ án mà CQTHTT làm khó, cản trở hoạt động hành nghề của luật sư như Thủ trưởng đi công tác nên chưa thể cấp giấy chứng nhận bào chữa. Qua thực tế có thể thấy pháp luật luôn tôn trọng và đảm bảo cho quyền bào chữa, quyền hành nghề của luật sư. Tuy nhiên vẫn còn một số nơi cơ quan tiến hành tố tụng và người THTT không muốn sự hiện diện của luật sư, đã xâm phạm về quyền bào chữa. Ngoài ra, ở một số nơi thì vẫn còn tình trạng quyền bào chữa của bị can, bị cáo bị các CQTHTT xâm phạm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.

- Giai đoạn xét xử tại Tòa

Qua việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm thời gian qua có thể thấy có trường hợp Tòa án chỉ dựa trên kết quả điều tra theo bản Kết luận điều tra Cơ quan điều tra và Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố (án tại hồ sơ) mà không quan tâm đến quá trình tranh tụng, các tình tiết mới, diễn biến tại phiên tòa. Do đó quyền của bị cáo, của NBC bị hạn chế, dẫn đến có một số bản án đã bị sai, thậm chí có một số trường hợp bị cáo bị xử oan nên nhiều bản án đã bị sửa, bị tuyên hủy để xét xử lại, thậm chí có nhiều vụ án do bản án sơ thẩm xét xử oan nên bị cấp phúc thẩm tuyên bị cáo vô tội và được trả tự do.

Theo Điều 13 BLTTHS 2015 có quy định: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, tại phiên tòa, nếu chưa có bản án của TA thì bị cáo chưa được coi là có tội và bên buộc tội phải có vị trí ngang bằng với bên gỡ tội.

Những hạn chế trong giai đoạn xét xử: Đa số hồ sơ các vụ án hình sự do các CQTHTT thu thập chủ yếu tập trung vào chứng cứ buộc tội đối với bị cáo, ít quan tâm đến việc gỡ tội. Khi đưa vụ án ra xét xử, đa số các Tòa án đều có định kiến là người đứng trước vành móng ngựa chính là người đã thực hiện hành vi phạm tội, hay nói cách khác Thẩm phán xác định bị cáo đã phạm tội. Do đó, trong thực tế tại một số phiên Tòa thì HĐXX hoặc đại diện VKS đặt câu hỏi mang tính áp đảo tinh thần, hỏi với tư cách người có quyền cao, sử dụng mệnh

lệnh, thậm chí lớn tiếng, quát tháo, gây hoảng loạn tinh thần cho bị cáo. Cách thức xét hỏi của Chủ tọa, Hội thẩm, Kiểm sát viên ở một số trường hợp còn mang tính áp đặt, móm cung, ép cung, có trường hợp xét hỏi một cách phiến diện, với tư tưởng “không bị cáo thì ai thực hiện điều đó”… thậm chí có tài liệu, chứng cứ không được xét hỏi, kiểm tra xem xét công khai tại phiên tòa nhưng vẫn dùng làm căn cứ để kết tội bị cáo.

Có nhiều vụ án mà địa phương xác định là án điểm thì những vụ án này sẽ được lãnh đạo và cấp ủy địa phương chỉ đạo dẫn đến bị cáo chưa được xét xử nhưng đã bị HĐXX định kiến là có tội. Khách quan mà nói những vụ án này, khi đưa ra xét xử chỉ là hình thức, không mang tính khách quan, thậm chí còn mang tính chủ quan của Tòa án. Đối với các vụ án có tính chất phức tạp, có nhiều quan điểm trái chiều nhau về tội danh thì các CQTHTT sẽ tổ chức họp liên ngành để thống nhất quan điểm giải quyết vụ án hoặc Tòa án thụ lý sẽ thỉnh thị Tòa án cấp trên để xin ý kiến giải quyết vụ án. Hiện nay trước khi truy tố và xét xử thì Viện kiểm sát và Tòa án vẫn áp dụng chế độ báo án để xin ý kiến lãnh đạo về quan điểm xử lý vụ án và lãnh đạo duyệt án trước khi đưa vụ án ra xét xử. Do đó, NBC tham gia bào chữa tại phiên tòa chỉ mang tính hình thức hay nói cách khác là quyền bào chữa bị hạn chế rất nhiều ... Như vậy thì quyền bào chữa của bị cáo, của NBC đã vô tình bị các CQTHTT, đặc biệt là Tòa án tước đoạt trước khi đưa vụ án ra xét xử và thậm chí ngay tại Tòa. Thật vậy, các CQTHTT nói chung, đặc biệt là cơ quan Tòa án và Thẩm phán đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc “suy đoán vô tội”, “thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và “ bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật” do BLTTHS quy định.

Thực tế hiện nay cho thấy trong nhiều phiên tòa sơ thẩm, sự có mặt của NBC chỉ mang tính hình thức, hiệu quả không cao. Có trường hợp Thẩm phán đã phủ nhận vai trò của NBC hoặc gây khó khăn đối với NBC khi họ thực hiện quyền bào chữa cho bị cáo. Cũng có trường hợp tại một số phiên Tòa, NBC tiến hành tranh tụng nhưng kết quả tranh tụng được ghi nhận chưa chuẩn xác, còn nhiều yếu tố bất lợi cho bị cáo nên ảnh hưởng rất lớn đến quyền của NBC. Pháp luật TTHS quy định khi xét xử, HĐXX phải căn cứ vào những chứng cứ được

xem xét tại phiên tòa và dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa nhưng trên thực tế lại có nhiều trường hợp cho thấy ngược lại. Nhiều tình tiết quan trọng NBC đưa ra để tranh luận nhằm gỡ tội cho bị cáo nhưng không được lập luận trong bản án nên còn một vài bản ản tuyên bị hủy hoặc sửa.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Những nguyên nhân của hạn chế là do pháp luật TTHS chưa phân biệt rò ràng phạm vi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng. Từ đó dẫn đến nhận thức và vận dụng các quy định của pháp luật về chức năng tố tụng có nhiều bất cập. Nhiều quy định về chức năng, nhiệm vụ của chủ thể thực hiện chức năng tố tụng chưa rò ràng, cùng một chủ thể nhưng lại được giao thực hiện đồng thời nhiều chức năng tố tụng khác nhau.

TA ngoài chức năng xét xử còn có chức năng buộc tội như là được quyền khởi tố vụ án nếu quá trình xét xử thấy có tội phạm. Việc quy định này vô hình dung đã trao cho TA quyền buộc tội, khi TA đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với một hành vi phạm tội nào đó, thì chủ thể thực hiện tội phạm đã được xác định. Khi vụ án được chuyển cho cơ quan điều tra khởi tố bị can thì nằm trong dự kiến của TA vì vậy khi vụ án chuyển đến giai đoạn xét xử sơ thẩm, bị cáo hoặc NBC có đưa ra ý kiến tranh luận thuyết phục đi nữa cũng khó có thể thuyết phục TA tuyên bị cáo không phạm tội. Vì tuyên như thế đồng nghĩa TA tự phủ nhận quyết định khởi tố của mình trước đó.

Quyền của người bào chữa từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh - 8

Ngoài ra, BLTTHS 2015 còn những quy định khác mà ít nhiều gây cản trở cho quyền bào chữa như: Quy định thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của TA; quy định về giới hạn xét xử; quy định HĐXX ra quyết định khởi tố vụ án.

- Theo quy định của Điều 280 BLTTHS 2015, Thẩm phán qua nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện có bỏ lọt tội phạm và người phạm tội thì có quyền ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, yêu cầu VKS khởi tố, truy tố thêm hành vi phạm tội và người phạm tội. Quy định này cho thấy luật TTHS đã mở rộng cho TA thực hiện thêm chức năng buộc tội. Khi TA yêu cầu VKS khởi tố và truy tố thêm hành vi và người phạm tội, thì rò ràng TA đã thể hiện quan điểm về vụ án trước khi xét xử, khi VKS đồng ý với yêu cầu của TA. Lúc đó cho dù phía chủ thể

thực hiện quyền bào chữa có đưa ra luận lập, quan điểm ra sao đi nữa thì cũng khó mà thuyết phục TA tuyên hành vi, bị cáo được khởi tố, truy tố sau đó là không phạm tội. Và như vậy, quyền bào chữa trong trường hợp này gần như bị triệt tiêu.

- Một nội dung khác của BLTTHS 2015 theo chúng tôi cũng thể hiện TA có thực hiện chức năng buộc tội là quy định về giới hạn xét xử của Tòa án tại Điều 298 BLTTHS; quy định của điều luật này như sau:

2. TA có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật...

3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố thì TA trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rò lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, NBC biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì TA có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn.

- Mặt khác, Điều 153 BLTTHS 2015 quy định trong quá trình xét xử nếu thấy có tội phạm thì TA được quyền khởi tố vụ án và như thế quyền bào chữa của bị cáo sau này sẽ không có tác dụng, bị vô hiệu hóa.

Từ những quy định trên thì TA có thẩm quyền quá lớn, can thiệp rất sâu khi thực hiện chức năng buộc tội hay có thể nói Tòa án rất tích cực đồng lòng buộc tội bị cáo theo kết quả điều tra của Cơ quan điều tra và đề nghị truy tố của Viện kiểm sát hoặc sự thống nhất trước khi xét xử được thể hiện qua các cuộc họp liên ngành Cơ quan điều tra - Viện kiểm sát - Tòa án. Như vậy, hoạt động tố tụng hình sự sẽ không còn khách quan, thiếu công bằng đối với nguời bị buộc tội hay nói cách khác bị cáo sẽ rơi vào tình trạng bất lợi khi phải một mình đối diện với các CQTHTT. Các quy định của pháp luật hiện hành về tố tụng hình sự ưu tiên bảo vệ quyền và các lợi ích hợp pháp công dân, của tổ chức nhiều hơn bảo vệ người thực hiện hành vi phạm tội cũng như các quyền của họ. Ngoài ra, các CQTHTT ở Việt Nam hoạt động tố tụng chủ yếu là thẩm vấn, việc tranh tụng có tiến hành tại Tòa án nhưng rất ít hoặc chỉ mang tính hình thức nên quyền bào chữa sẽ bị hạn chế.

Pháp luật luôn tôn trọng và đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, đặc biệt là

trong tố tụng hình sự cần phải có sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc. Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn sự bất công trong mối quan hệ giữa bên buộc tội là các CQTHTT và bên bị buộc tội là bị cáo hoặc có sự tham gia của NBC. Hầu hết các CQTHTT, người THTT chưa thật sự quan tâm đến việc tự bào chữa của bị cáo và việc bào chữa của NBC nên quyền bào chữa đôi khi còn bị hạn chế, ít nhiều cũng làm ảnh hưởng đến quyền của bị cáo.

Trên thực tế vẫn còn một số cán bộ trong các CQTHTT bị lệch chuẩn, phẩm chất đạo đức bị suy đồi, biến chất; cũng có cán bộ yếu về trình độ nghiệp vụ, không được đào tạo đúng chuyên môn hoặc không nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm thực tế, … dẫn đến nhận định sai hoặc chủ quan trong quá trình thực hiện công vụ. Từ thực tế trên, trong thời gian qua đã có không ít vụ án buộc phải tạm đình chỉ kéo dài, đình chỉ với lý do không chứng minh được hành vi phạm tội hoặc Tòa án có thẩm quyền phải sửa án, hủy án với lý do oan sai, …

Mặc dù pháp luật tố tụng hình sự luôn đảm bảo để những người tham gia tố tụng được bình đẳng thông qua các quyền của mình, đặc biệt là NBC nhưng thực tế vẫn còn tồn tại cơ chế xin cho, nếu chưa được sự chấp nhận của các CQTHTT thì NBC rất khó thực hiện quyền bào chữa của mình, cũng còn trường hợp việc tranh tụng tại Tòa của NBC ít được quan tâm. Các CQTHTT cũng như các cơ quan, tổ chức khác chưa nhìn nhận, đánh giá đúng vị trí, vai trò của các luật sư trong hoạt động hành nghề luật sư nói chung cũng như trong quá trình tham gia tố tụng nói riêng.

Điển hình là vụ án Đ. T. T. sinh năm: 1999; ngụ xã B. N, huyện D. M. C, tỉnh Tây Ninh bị VKSND tỉnh truy tố về tội “Hiếp dâm trẻ em” theo quy định tại Điều 112 BLHS năm 1999. Nội dung vụ án: T quen với bị hại LNTTA, sinh ngày 02/10/2002. Nhiều lần T. chở TA đi chơi và quan hệ tình dục với nhau, sau đó gia đình em TA phát hiện và tố cáo với cơ quan có thẩm quyền. TAND tỉnh Tây Ninh đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (lần thứ nhất) và tuyên phạt bị cáo T 08 năm tù, về tội “Hiếp dâm trẻ em”. TAND cấp cao tại TP.HCM xét xử phúc thẩm tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm trên, lý do hủy án do bị hại TA có 2 giấy khai sinh khác nhau đều khai sinh quá hạn và cấp sơ thẩm không

thu thập thêm chứng cứ khác để chứng minh về ngày sinh của người bị hại.

Sau khi tiến hành giám định xương của nạn nhân TA cơ quan giam định đã xác định: Bị hại có độ tuổi từ 12 năm 10 tháng đến 13 năm 4 tháng vào thời điểm quan hệ tình dục với bị cáo. Với kết quả giám định như vậy cấp sơ thẩm cần áp dụng nguyên tắc suy đoán có lợi cho bị cáo và ra quyết định đình chỉ vụ án, nhưng VKSND tỉnh Tây Ninh vẫn tiếp tục truy tố đối với bị cáo T. Luật sư bào chữa nhiều lần kiến nghị yêu cầu đình chỉ nhưng vẫn không được các cơ quan tố tụng chấp nhận. Đến ngày 8/9/2017, HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự thuộc TAND tỉnh Tây Ninh đã tuyên bị cáo T không phạm tội và tuyên trả tự do cho anh T tại tòa.

Qua vụ án trên cho thấy quyền của bị cáo được quy định trong BLTTHS năm 2003 chưa thật sự hợp lý, còn nhiều bất cập, quy định chưa cụ thể, rò ràng nên rất khó thực hiện; quyền bào chữa chưa được đảm bảo, còn nhiều hạn chế. Do đó, NBC không thể thực hiện hết chức năng của mình trong quá trình tham gia bào chữa nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bị cáo. Ngoài ra do còn những quy định chưa cụ thể của BLTTHS năm 2003 nên các CQTHTT, NTHTT cũng rất khó khăn khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình dẫn đến xảy ra thiếu xót trong quá trình giải quyết VAHS.

Tiểu kết Chương 2

Trong các phiên Tòa xét xử sơ thẩm VAHS, các nguyên tắc cơ bản của TTHS được thể hiện đậm nét nhất, là nơi thành phần chủ thể tham gia đông đủ và có tính đại diện cao. Tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHS, thì quyền của bị cáo có thể được xem xét một cách đầy đủ, công bằng. Tương tự thì quyền và nghĩa vụ của những người THTT; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng khác cũng được thực hiện công khai đúng theo quy định của BLTTHS. Bị cáo và tất cả những người tham gia tố tụng được tranh tụng trực tiếp, có quyền lập luận, trình bày căn cứ, lý lẽ có lợi cho mình hoặc đưa ra lý luận để chống lại căn cứ buộc tội hoặc ngược lại. Hình thức tranh tụng tại Tòa có thể cung cấp tài liệu, chứng cứ mới hoặc yêu kiểm tra, đánh giá lại chứng cứ đã được thu thập trước đó hoặc cũng có thể đưa ra các yêu cầu nhằm kết luận chính xác các tài liệu được sử dụng làm chứng cứ như giám định, giám định lại. Do đó, diễn biến tại các phiên Tòa xét xử VAHS đánh giá thật sự khách quan, toàn diện về vụ án.

BLTTHS năm 2015 đã thể hiện rò ràng quyền bào chữa của bị cáo trong quá trình tiến hành tố tụng và đặc biệt là giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS. Như vậy so với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015, thì quyền bào chữa của bị cáo được cụ thể hóa và nâng lên rò rệt, đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật đối của bị cáo với những người THTT và những người tham gia tố tụng khác.

Mặc dù tại các phiên Tòa xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn thành phố Tây Ninh, thuộc tỉnh Tây Ninh quyền bào chữa đã được thực hiện công khai nhưng vẫn còn nhiều vấn đề đáng lưu ý, cần phải được giải quyết sớm để đảm bảo quyền bào chữa không bị cản trở và ngày càng được minh bạch, bình đẳng hơn trong thời gian tới.

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH


3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của người bào chữa tại thành phố Tây Ninh

3.1.1. Nhu cầu bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội

Hiện nay, hầu hết các Quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm đến quyền con người và các yêu cầu cần thiết để đảm bảo quyền con người. Bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của người bị buộc tội nói riêng trong TTHS là xu thế tất yếu trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay trên thế giới. Pháp luật hình sự quốc tế đã đặt ra các chuẩn mực pháp lý cho hoạt động tư pháp hình sự nhằm đảm bảo tối đa các quyền của họ. Các quốc gia thành viên trên cơ sở đặc thù về pháp luật và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội sẽ hoạch định chính sách hình sự phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế. Theo pháp luật TTHS quốc tế, quyền con người của người bị buộc tội được đảm bảo trên cơ sở các nguyên tắc TTHS, các quy định về các quyền cơ bản của người bị buộc tội và quy định các bảo đảm pháp lý để thực hiện các nguyên tắc tố tụng và quyền tố tụng của người bị buộc tội.

Quyền bào chữa là một quyền đặc biệt của người bị buộc tội bảo vệ mình trước các hoạt động của các CQTHTT, NTHTT trong quan hệ pháp luật hình sự. Đảm bảo quyền bào chữa là một trong những hình thức đầu tiên và cơ bản nhất để đảm bảo thực hiện quyền con người. Thực hiện nghĩa vụ nội luật hoá các cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết nhằm đảm bảo quyền con người. Hiến pháp 2013, lần đầu tiên quyền bào chữa được sắp xếp trong nhóm các quyền cơ bản của công dân, quyền con người. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là bảo đảm Hiến pháp. Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí