Về Thời Điểm Phát Sinh Quyền Của Người Bào Chữa

Ngày 27-11-2015, Quốc hội thông qua BLTTHS 2015 quy định những người khác cũng có quyền bào chữa, người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; Bào chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý.

So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS 2015 quy định Người đại diện của người bị buộc tội có khái niệm rộng hơn Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo; bổ sung người bào chữa có thể là Trợ giúp viên pháp lý bên cạnh Luật sư và Bào chữa viên nhân dân đồng thời bổ sung quy định về Bào chữa viên nhân dân để xác định về diện chủ thể này, đó là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với tổ quốc, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

2.1.1.2. Về thời điểm phát sinh quyền của người bào chữa

Thời điểm phát sinh quyền của người bào chữa chính là thời điểm mà người bào chữa được tham gia tố tụng hình sự. Đây chính là thời điểm mà pháp luật TTHS quy định Luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện của người bị buộc tội, Bào chữa viên nhân dân, Trợ giúp viên pháp lý được tham gia tố tụng với tư cách và địa vị pháp lý là “Người bào chữa” nhằm thực hiện các hoạt động bào chữa cho người bị buộc tội.

2.1.2. Thực trạng quy định về quyền của người bào chữa Quyền của người bào chữa gồm 2 nhóm quyền cơ bản:

Nhóm 1: Quyền mà người bào chữa được thực hiện đại diện cho quyền của người bị buộc tội (quyền đại diện)

Gồm có:

- Quyền được thông báo về thời gian, địa điểm lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ khi hỏi cung bị can, phúc cung bị cáo.

Quyền được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền THTT, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng.

Quyền của người bào chữa từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh - 5

- Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của BLTTHS; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

Nhóm 2: Quyền riêng có của người bào chữa (không phụ thuộc vào quyền của người bị buộc tội)

- Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội (người bị bắt, bị can, bị cáo)

- Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ khi hỏi cung bị can, phúc cung bị cáo.

- Quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu.

- Quyền được trình bày ý kiến về chứng cứ, sử dụng chứng cứ; yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ; giám định bổ sung, giám định lại, định giá tài sản.

- Nghĩa vụ của người bào chữa:

Quyền của người bào chữa không thể tách rời với nghĩa vụ của NBC:

- NBC có nghĩa vụ giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ;

- Các nghĩa vụ khác bao gồm: người bào chữa không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa, không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Luật còn quy định người bào chữa phải tôn trong sự thật và pháp luật, không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Nếu người bào chữa làm trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Trong 2 nhóm quyền của người bào chữa đã nêu trên, nhóm 2 là nhóm quyền đặc thù riêng có của người bào chữa, không phụ thuộc vào quyền của người bị buộc tội. Chính nhóm quyền này làm nên đặc trưng của quyền bào

chữa. Nhóm quyền 1 (là nhóm quyền đại diện cho quyền của người bị buộc tội), nghĩa là người bị buộc tội được hưởng các quyền này và NBC cũng có các quyền đó (ví dụ: Quyền được xem biên bản về hoạt động tố tụng, quyền được xem biên bản về hoạt động tố tụng v.v...) để được tạo điều kiện thuận lợi về các thông tin nhằm bảo đảm thực hiện được quyền bào chữa (quyền đặc thù trong nhóm 2) của mình.

Vì vậy trong phần nội dung phân tích của luận văn, tác giả sẽ dành ưu tiên để phân tích thực trạng quy định về nhóm quyền bào chữa đặc thù (nhóm 2) và chỉ tóm tắt các nội dung của nhóm quyền đại diện (nhóm 1).

* Đối với nhóm quyền bào chữa đặc thù (nhóm 2), bao gồm các quyền cụ thể sau:

2.1.2.1. Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội (người bị bắt, bị can, bị cáo)

Quyền gặp mặt, tiếp xúc, làm việc riêng của NBC với người bị buộc tội bắt nguồn và liên quan trực tiếp từ quyền Hiến định cho phép người bị buộc tội có quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Đây cũng chính là cơ sở để NBC triển khai hoạt động bào chữa của mình. Mục đích của quyền được gặp, hỏi người bị buộc tội là nhằm tìm hiểu về vụ án, xác minh các thông tin, tài liệu, đánh giá tình trạng thể chất, tinh thần, nhu cầu của người bị buộc tội và thu thập các chứng cứ phục vụ cho hoạt động bào chữa.

Trước hết cần khẳng định theo nội dung của điều luật này thì NBC có quyền gặp, hỏi người bị buộc tội một cách chủ động, thực hiện trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào và không hạn chế số lần, thời gian gặp; được hỏi, trao đổi hoàn toàn riêng tư với người bị buộc tội trong điều kiện giám sát theo quy định của cơ sở giam giữ mà không bắt buộc có mặt của NTHTT. Khẳng định này còn được thể hiện qua các quy định của pháp luật liên quan như sau:

Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định: “Người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực hiện bào chữa theo quy định của BLTTHS và Luật này tại buồng làm việc của cơ sở giam giữ hoặc nơi người bị tạm giữ, tạm giam đang khám bệnh, chữa bệnh…”. Như vậy BLTTHS năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 đều khẳng định NBC có

quyền gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị cáo để thực hiện việc bào chữa. Đây là việc gặp riêng giữa NBC và người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam. Quy định mới này hoàn toàn khác với việc NBC có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, khi CQTHTT hỏi cung bị can.

Ngày 23/01/2018, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP- TANDTC - VKSNDTC quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ với cơ quan có thẩm quyền THTT và Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. Theo đó việc phối hợp giải quyết cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam gặp NBC được thực hiện theo quy định tại Điều 80 BLTTHS năm 2015 và Điều 22, Điều 23 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam. Khi nhận được văn bản thông báo NBC cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam của cơ quan đang thụ lý vụ án thì cơ sở giam giữ tổ chức cho NBC được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật. Trường hợp cần phải giám sát cuộc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát. Nếu người bị tạm giữ, người bị tạm giam, NBC có hành vi vi phạm nội quy cơ sở giam giữ hoặc cản trở việc giải quyết vụ án thì người có thẩm quyền giám sát phải dừng ngay cuộc gặp và lập biên bản, báo cáo với thủ trưởng cơ sở giam giữ và thông báo bằng văn bản cho cơ quan đang thụ lý vụ án biết để xử lý. Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12/3/2018.

Điều 80 BLTTHS năm 2015 quy định, để được gặp người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, NBC phải xuất trình văn bản thông báo NBC, thẻ luật sư, thẻ trợ giúp viên pháp lý, chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân. Tuy nhiên, do Nhà tạm giữ, Trại tạm giam trực thuộc Bộ Công an quản lý, nên việc thông báo mang tính liên thông giữa cơ quan điều tra và giám thị cơ sở giam giữ rất quan trọng. Đây là điều kiện tối thiểu đảm bảo khi NBC có mặt tại cơ sở giam giữ để đăng ký gặp, làm việc với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì được tạo điều kiện thuận lợi tối đa mà không bị bất cứ hạn chế nào.

Chính vì nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, cũng như tạo cơ

chế phối hợp giữa các CQTHTT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS năm 2015. Ngày 10/10/2019, Bộ Công an đã ban hành Thông tư 46/2019/TT-BCA quy định trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Theo quy định của Thông tư này, khi NBC đề nghị gặp thân chủ, đã xuất trình văn bản thông báo NBC và thẻ luật sư, chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân thì cơ quan đang thụ lý phải bố trí để NBC gặp, đồng thời phổ biến cho NBC biết quy định của trụ sở cơ quan điều tra và yêu cầu chấp hành nghiêm chỉnh. Khi NBC đề nghị gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam, thì cơ quan đang quản lý người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam có trách nhiệm thông báo cho cơ quan đang thụ lý vụ án biết việc gặp của NBC để cử người phối hợp với cơ sở giam giữ giám sát cuộc gặp nếu xét thấy cần thiết. Đặc biệt, NBC có thể thông báo trước việc gặp thân chủ cho điều tra viên đang thụ lý vụ án. Cơ quan điều tra, cơ sở giam giữ không được hạn chế số lần và thời gian trên một lần gặp của NBC với người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam.

BLTTHS năm 2015, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT- BCA- BQP- TANDTC- VKSNDTC ngày 23/01/2018, Thông tư 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 đều khẳng định quyền đương nhiên và chủ động của NBC trong việc gặp người bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra, trừ trường hợp cần giữ bí mật điều tra trong các vụ án xâm hại an ninh quốc gia theo quy định tại Điều 74 BLTTHS năm 2015. Tất cả các quy định nêu trên cũng không đề cập hay quy định việc NBC gặp người bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra bắt buộc phải có mặt điều tra viên hoặc phải được sự chấp thuận trước của cơ quan điều tra. Như vậy, về mặt pháp lý việc gặp, làm việc riêng chủ động của NBC với người bị tạm giữ, người bị tạm giam buộc cơ sở giam giữ phải giải quyết yêu cầu gặp mặt của NBC. Trong trường hợp cần thiết theo quy định thì báo với cơ quan thụ lý vụ

án để cử người tham gia giám sát chứ không thể lấy lý do cơ quan điều tra không đồng ý hoặc điều tra viên bận không tham dự để từ chối việc NBC yêu cầu gặp mặt người bị tạm giữ, tạm giam.

Ý nghĩa và bản chất của các quy định trên đã tháo gỡ các rào cản nhằm hạn chế quyền của NBC, và nếu quyền này không được tôn trọng thì phải xác định đây là hành vi vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

2.1.2.2. Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ khi hỏi cung bị can, phúc cung bị cáo.

Mục đích quy định NBC có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ khi hỏi cung bị can, phúc cung bị cáo trong các hoạt động lấy lời khai, hỏi cung là nhằm giúp cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can ổn định hơn về mặt tâm lý, đồng thời những NTHTT cũng thận trọng hơn trong việc tuân thủ pháp luật, tránh được các trường hợp mớm cung, ép cung, bức cung, dùng nhục hình hoặc các hành vi vi phạm thủ tục tố tụng. Mặc khác, sự hiện diện của NBC trong hoạt động lấy lời khai, hỏi cung, phúc cung làm tăng tính khách quan và thuyết phục hơn. Các CQTHTT cần thừa nhận rằng, NBC góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa chứ không phải là người gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. NBC có mặt trong buổi lấy lời khai, hỏi cung cũng có quyền hỏi để thu thập chứng cứ phục vụ cho hoạt động bào chữa.

Khi có mặt trong các buổi lấy lời khai, hỏi cung NBC sẽ nắm bắt được các tình tiết, các chứng cứ của vụ án một cách trực tiếp mà không phải thông qua hồ sơ hay bút lục, được tiếp xúc với nội dung vụ án một cách trực tiếp. Đồng thời cũng tránh trường hợp người ghi chép hồ sơ sai hoặc NBC hiểu sai ý diễn đạt của họ dẫn đến việc nhận định sai các tình tiết, nội dung vụ án, làm ảnh hưởng đến hướng tranh tụng của NBC trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.

Điểm b khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 bổ sung một số quyền của NBC gồm: quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt; Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì NBC có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Theo quy định tại Điều luật này, thì cuộc gặp do

Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên chủ động tiến hành, theo kế hoạch đã chuẩn bị trước nhằm lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can với sự có mặt của NBC. Để đảm bảo cho NBC thực hiện quyền của mình, khoản 1 Điều 79 BLTTHS năm 2015 quy định “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo quy định của Bộ luật này”. Khi gặp trong những buổi lấy lời khai, hỏi cung thì NBC chỉ được hỏi người bị buộc tội khi người có thẩm quyền THTT thực hiện lấy lời khai, hỏi cung đồng ý. Tuy nhiên sau khi kết thúc việc lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền thì NBC có thể gặp và hỏi người bị buộc tội. Theo quy định tại điểm d, đ khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015, để chuẩn bị cho cuộc gặp này, NBC được cơ quan có thẩm quyền THTT báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng điều tra khác theo quy định của BLTTHS; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa

Điều 11, Thông tư 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 của Bộ Công an quy định bảo đảm sự có mặt của NBC khi tiến hành các hoạt động tố tụng. Theo quy định này thì:

Thứ nhất, cơ quan đang thụ lý vụ án phải báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà NBC có quyền tham gia tối thiểu 24 giờ đối với trường hợp NBC cư trú cùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với cơ quan đang thụ lý vụ án, 48 giờ đối với trường hợp NBC cư trú khác tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với cơ quan đang thụ lý vụ án trước ngày tiến hành hoạt động tố tụng. Trường hợp NBC thỏa thuận với Điều tra viên, cán bộ điều tra thời hạn sớm hơn thì việc thực hiện các hoạt động tố tụng vẫn được thực hiện theo thỏa thuận đó.

Quy định này giúp NBC chủ động và tích cực hơn trong các buổi lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, bởi vì trong cùng một thời gian có thể NBC đồng thời tham gia nhiều vụ án khác nhau hoặc NBC biết được thời gian về buổi lấy lời khai, lấy cung quá gấp không kịp sắp xếp tham gia hoạt

động này, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình.

Thứ hai, NBC đã được cơ quan điều tra thông báo về thời gian và địa điểm tiến hành lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giam, lấy cung bị can mà không có mặt thì hoạt động lấy lời khai, lấy cung vẫn được tiến hành.

Quy định này nhằm yêu cầu NBC cần tuân thủ các thông tin đã được thông báo, Điều tra viên không phải chờ có mặt NBC mới tiến hành lấy hoạt động lời khai, hỏi cung vì như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giải quyết vụ án thường đòi hỏi tính chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội. Quy định này vẫn bảo đảm quyền của NBC nhưng không gây cản trở cho công tác điều tra.

Thứ ba, khi lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, phúc cung bị cáo Điều tra viên, Cán bộ điều tra, kiểm sát viên (đối với trường hợp phúc cung bị cao) và NBC phải thực hiện theo quy định của điểm b khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015, Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT/BCA- BQP- TANDTC – VKSNDTC ngày 23/01/2018, nội quy Nhà tạm giữ, Trại tạm giam và các quy định pháp luật khác có liên quan. Nếu phát hiện NBC vi phạm pháp luật thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra, kiểm sát viên phải dừng ngay việc lấy lời khai, hỏi cung bị can, phúc cung bị can và lập biên bản về việc này, báo cáo Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra xử lý. Trường hợp Điều tra viên, Cán bộ điều tra vi phạm pháp luật thì NBC có quyền phản ánh vi phạm đến Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra.

Thứ tư, khi lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can nếu Điều tra viên đồng ý cho NBC được hỏi thì phải ghi câu hỏi của NBC, câu trả lời của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can vào biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can. Khi kết thúc việc lấy lời khai, hỏi cung bị can, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải đọc lại hoặc đưa cho NBC đọc lại biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung. Sau khi xác nhận đúng nội dung câu hỏi của NBC, câu trả lời của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra yêu cầu NBC ký tên vào biên bản.

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí