Yêu Cầu Bảo Đảm Tính Tranh Tụng Trong Hoạt Động Tố Tụng Hình Sự

được ghi nhận ở Điều 16 BLTTHS năm 2015 “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và đảm bảo cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”. Ngoài ra, quyền này còn được cụ thể hoá trong nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện quyền bào chữa như: Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014, Luật tạm giam năm 2015, Luật luật sư, Luật trợ giúp pháp lý năm 2017,…và nhiều văn bản dưới luật khác. Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam bao gồm 3 nội dung: Quyền có NBC là quyền cơ bản của người bị buộc tội, NBC được tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng và CQTHTT có nghĩa vụ bảo đảm cho người bị buộc tội và NBC của họ thực hiện quyền bào chữa.

Như vậy, Hiến pháp đã xác định rò quyền bào chữa là quyền con người, quyền công dân; Pháp luật TTHS quy định quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội không phải chỉ là việc ghi nhận cho họ có các quyền trong việc tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa mà còn phải bao gồm cả việc tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để họ thực hiện các quyền đó, để cho các quyền đó được thực hiện trong thực tế. Các CQTHTT phải đảm bảo cho người bị buộc tội vừa có thể đồng thời tự bào chữa vừa có thể nhờ người khác bào chữa; việc nhờ người khác bào chữa không làm mất đi quyền tự bào chữa của họ; đảm bảo mọi hành vi cản trở người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa phải bị phát hiện kịp thời và bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

3.1.2. Yêu cầu bảo đảm tính tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự

Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử. Quy định này là nền tảng pháp lý cơ bản để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà và đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo được thực thi trên thực tế. Trên nền tảng nguyên tắc Hiến định, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung

nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Đây là quy định mới, căn cứ pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội. Mặc dù tên gọi của nguyên tắc là “Tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”, nhưng có thể nói mức độ và phạm vi những vấn đề tranh tụng đã mở rộng ngay từ khi vụ án được khởi tố chứ không chỉ diễn ra tại phiên toà xét xử công khai. Nội dung nguyên tắc này quy định “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rò sự thật khách quan của vụ án”. Với việc quy định nội dung cụ thể về cách thức và phạm vi mà NTHTT và người tham gia tố tụng được bình đẳng trong việc đưa ra và đánh giá chứng cứ, quyền đưa ra yêu cầu, BLTTHS năm 2015 đã phân định rò các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử, đã quy định rò mối quan hệ, vị trí giữa những NTHTT và những người tham gia tố tụng. Đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ trên cơ sở bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng mới đảm bảo chất lượng, hiệu quả và thực thi, đảm bảo được quyền bào chữa.

Xét về mặt lý luận cũng như trên thực tế, việc đảm bảo nguyên tắc tranh tụng được áp dụng hiệu quả trên thực tế sẽ nâng tầm vị thế và địa vị pháp lý giữa các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội trong việc thu thập và đưa ra chứng cứ. Vấn đề này làm nền tảng cho việc quy định một trong những quyền rất quan trọng của NBC là quyền thu thập chứng cứ, quyền đánh giá chứng cứ do CQTHTT thu thập và quyền yêu cầu Toà án thu thập, bổ sung chứng cứ nếu đã yêu cầu ở giai đoạn điều tra, truy tố mà không được chấp nhận. Điều này là sự đảm bảo cho quá trình tranh tụng được bình đẳng và hiệu quả hơn.

Một trong những nội dung đảm bảo nguyên tắc tranh tụng được cụ thể hoá đó là:

Thứ nhất, quy định đầy đủ các quyền và cơ chế đảm bảo các quyền của người bị buộc tội, nhất là quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

Thứ hai, quy định đầy đủ các quyền và cơ chế đảm bảo các quyền của NBC, tạo sự bình đẳng và các điều kiện thuận lợi cho NBC tham gia các hoạt động TTHS, trong đó bổ sung cho NBC quyền thu thập chứng cứ, đồng thời quy định NBC có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền THTT kiểm tra, đánh giá chứng cứ.

3.1.3. Yêu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền của người bào chữa

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Cần khẳng định chiến lược cải cách tư pháp do Đảng ta đề cập trong Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 xuất phát từ nhận thức coi pháp luật phải là đại lượng đảm bảo công bằng xã hội, là phương tiện để các tổ chức, cá nhân tạo lập cơ hội tìm kiếm công lý. Xuất phát từ nhu cầu này, bên cạnh việc cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan sai thì cần phải nâng cao vị thế, vai trò của NBC mà chủ yếu là đội ngũ luật sư không chỉ đáp ứng về số lượng mà còn cần phải nâng cao tố chất, nội lực, kỹ năng hành nghề chuyên nghiệp. Để thực hiện được điều này, yêu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền của NBC là cần thiết.

Quyền con người đã được pháp luật tôn trọng và bảo vệ rất rò, thể hiện cụ thể trong BLTTHS năm 2015. Hiện nay, quyền con người được pháp luật TTHS bảo vệ theo hướng dân chủ, bình đẳng và được công khai, đó cũng là sự đổi mới của hệ thống pháp luật. Bắt buộc các CQTHTT và NTHTT phải căn cứ vào các quy định của pháp luật nói chung và BLTTHS năm 2015 nói riêng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, tuyệt đối không xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và của người bị buộc tội nói riêng. Có như thế thì quyền con người mới luôn được tôn trọng và đảm bảo trong quá trình tiến hành tố tụng.

Quyền của người bào chữa từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh - 9

BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm cho NBC các quyền trong hoạt động tố tụng, tạo bước đệm cho NBC thực hiện tốt chức năng của mình trong việc bảo

vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Tuy nhiên, qua phân tích các quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền của NBC trong Chương 2 của luận văn cho thấy, quy định của BLTTHS năm 2015 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành còn tồn tại một số bất cập, thiếu sót làm hạn chế hiệu quả thực hiện quyền của NBC trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong thực tiễn thời gian qua, cụ thể như:

- Việc gặp, hỏi người bị buộc tội là gặp riêng hay có sự giám sát? Nếu phải giám sát thì có giám sát cả hình ảnh lẫn âm thanh hay chỉ hỉnh ảnh? Thời gian gặp? Việc đảm bảo thông tin trao đổi giữa hai bên...

- Cách thức thông báo liên lạc của điều tra viên với NBC trong việc được tham gia các buổi lấy lời khai, hỏi cung.

- Chưa quy định cụ thể trách nhiệm cũng như các chế tài đối với các hành vi cố tình che dấu, không cung cấp chứng cứ, tài liệu, hành vi cản trở hoạt động thu thập chứng cứ của NBC.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện một số quyền của người bào chữa tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định nhằm bảo đảm hơn quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của người bào chữa:

Về quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của NBC theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015. Điều luật không đề cập đến việc gặp này là gặp riêng giữa NBC với người bị buộc tội. Thiết nghĩ, việc đảm bảo tính riêng tư trong việc gặp, trao đổi giữa NBC với người bị buộc tội là cần thiết đối với quyền bào chữa của họ. Khi đang ở một vị thế bất lợi, người bị buộc tội hoang mang hay chấn động tâm lý là điều không thể tránh khỏi. Vậy nên, các tư vấn pháp lý của NBC đối với người bị buộc tội trong lúc này đóng vai trò rất quan trọng, không chỉ tác động tích cực đến tâm lý của họ, mà còn có thể tạo ra những chuyển biến tốt cho quá trình giải quyết vụ án. Nhưng nếu có sự giám sát của điều tra viên thì liệu cuộc gặp này có khác gì một buổi hỏi cung? Hơn nữa, trong thời điểm bị bắt, bị tạm giam, tạm giữ người bị buộc tội vẫn có thể là người vô

tội, tuy hạn chế một số quyền nhất định nhưng họ cần đảm bảo việc được gặp riêng NBC của mình.

Theo đó, điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 nên được sửa đổi, bổ sung rò hơn như sau: “gặp riêng, hỏi người bị buộc tội”. Đây là cuộc gặp hoàn toàn do NBC chủ động, thời gian gặp trong giờ hành chính, được hỏi, được trao đổi hoàn toàn riêng tư với người bị buộc tội trong điều kiện giám sát theo quy định của cơ sở giam giữ mà không bắt buộc phải có mặt điều tra viên. Ý nghĩa và bản chất của quy định này chính là ở chỗ tháo gỡ các rào cản nhằm hạn chế quyền của người bị buộc tội hoặc nhận thức không đúng về quan niệm trong giai đoạn điều tra, việc gặp của NBC bắt buộc phải theo kế hoạch của cơ quan điều tra, điều tra viên.

Tác giả ngoài việc có một số ý kiến thì hoàn toàn đồng tình với kiến nghị của Liên đoàn luật sư về góp ý dự thảo cho Thông tư quy định trách nhiệm của lực lượng công an trong việc bảo đảm thực hiện các quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Theo đó, để đảm bảo quy định về quyền gặp riêng của NBC với người bị buộc tội được thực thi, cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể quyền gặp riêng của NBC với người bị buộc tội theo tinh thần:

Một là, NBC được gặp riêng người bị buộc tội theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015, trong các trường hợp sau:

a) Các vụ án không thuộc trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia được Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

b) Trường hợp người bị buộc tội có ý kiến hoặc văn bản cho rằng không có hành vi phạm tội, bị khởi tố không đúng tội danh hoặc hành vi, phản đối việc bị bắt, bị tạm giữ, bị khởi tố trong quá trình tố tụng.

c) Các trường hợp người bị buộc tội thuộc các đối tượng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76.

Hai là, ngoài các quy định NBC được gặp riêng người bị buộc tội theo

như quy định trên. Trong trường hợp đặc biệt, NBC có quyền đề xuất được gặp riêng người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tại phòng riêng thuộc cơ sở giam giữ. Mọi diễn biến sẽ được quan sát trong tầm nhìn nhưng không trong tầm nghe của NTHTT để đảm bảo hai bên có thể trao đổi những việc cần thiết mà không có bên thứ ba. Việc này đã được ghi nhận trong các Công ước của Liên Hiệp quốc về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết và tham gia. Tuy nhiên, NBC phải có nghĩa vụ tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, nội quy của Nhà tạm giữ, Trại tạm giam. Nếu vi phạm sẽ tuỳ theo mức độ để xử lý như thu lại Thông báo đăng ký NBC, tước thẻ luật sư hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ba là, về thủ tục NBC tiếp xúc, gặp người bị buộc tội: “Khi có yêu cầu gặp riêng người bị buộc tội, người bào chữa xuất trình thông báo đăng ký bào chữa, Thẻ luật sư, Thẻ trợ giúp viên pháp lý, Chứng minh nhân dân hoặc Thẻ căn cước kèm theo văn bản đề nghị gặp riêng người bị buộc tội. Cơ sở nơi giam giữ có nhiệm vụ trích xuất người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can, bị cáo cho người bào chữa gặp mặt tại phòng thăm gặp khi nhận đủ các giấy tờ do người bào chữa xuất trình

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định nhằm bảo đảm quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can của người bào chữa:

Về quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can theo quy định điểm b khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015: NBC có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý, thì NBC được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì NBC có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can.

Đây là cuộc gặp theo kế hoạch điều tra đã được Cơ quan điều tra, điều tra viên chuẩn bị trước nhằm lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can với sự có mặt của NBC. Trong cuộc gặp này NBC chỉ được hỏi khi điều tra viên đồng ý, nội dung và câu trả lời của người bị tạm giữ, người bị tạm

giam phải được ghi vào biên bản. Quy định này có căn cứ vì NBC đã chủ động có các buổi gặp và làm việc riêng với người bị buộc tội, nên trong buổi gặp do điều tra viên tiến hành, NBC chỉ hỏi khi được điều tra viên đồng ý là hoàn toàn phù hợp, vì như vậy sẽ không làm gián đoạn tiến trình lấy lời khai, hỏi cung người bị buộc tội. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền này của NBC được thực hiện hiệu quả cũng như bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, NBC có quyền giải thích cho người bị buộc tội về quyền trả lời hoặc từ chối không trả lời vấn đề điều tra viên hỏi trong trường hợp những câu hỏi mà điều tra viên đưa ra có tính chất mớm cung, bức cung; xem xét và có ý kiến về nội dung biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung có đúng với nội dung trả lời của người bị buộc tội hay không.

Điểm b khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 có thể sửa đổi, bổ sung như sau “Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Trong trường hợp câu hỏi của người có thẩm quyền lấy lời khai, hỏi cung đưa ra có dấu hiệu mớm cung, dụ cung hay hành vi bức cung, dùng nhục hình thì người bào chữa có quyền can thiệp phản đối và có quyền giải thích pháp luật cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can quyền trả lời hoặc không trả lời câu hỏi đó ”.

Điểm d khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 và Điều 11 Thông tư 46/2019/TT – BCA đã quy định điều tra viên thông báo cho NBC thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung người bị buộc tội. Tuy nhiên Thông tư 46 chưa quy định rò ràng cách thức liên lạc, thông báo giữa điều tra viên với NBC. Việc điều tra viên nhắn tin hay gọi điện thoại cho NBC thông báo về thời gian, địa điểm lấy lời khai người bị buộc tội vẫn mang tích chất tuỳ tiện, đôi lúc vì quá nhiều việc mà điều tra viên quên gọi, hoặc trường hợp NBC đang trong phiên toà nên không nghe điện thoại thì việc thông báo này dễ dàng bị trôi qua. Cần quy định rò ràng cách thức thông báo thời gian, địa điểm lấy lời khai người bị bắt, bị tạm giữ, hỏi cung bị can bằng email điện tử hoặc tin nhắn SMS với số điện thoại được NBC đăng ký để làm bằng chứng xác thực rằng điều tra viên đã thông báo cho NBC.

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định nhằm bảo đảm quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa:

Thu thập chứng cứ được hiểu là việc ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ làm cho chứng cứ có đầy đủ giá trị chứng minh và hiệu quả sử dụng. Như vậy chứng cứ cần phải có sự ghi nhận theo thủ tục TTHS mới có thể sử dụng làm chứng cứ chứng minh tội phạm.

Trong thực tế giải quyết vụ án hình sự cho thấy, nhiều trường hợp các CQTHTT trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ thường chỉ quan tâm đến việc thu thập các chứng cứ xác định có tội mà không mấy quan tâm đến việc thu thập các chứng cứ theo hướng vô tội, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của người bị buộc tội nên việc thu thập chứng cứ đôi khi không được tiến hành một cách khách quan và toàn diện dẫn đến tình trạng vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội. Trong khi đó, quyền thu thập, đưa ra chứng cứ của NBC khác với CQTHTT, NTHTT bởi NBC trước là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, sau là góp phần làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ án. Những chứng cứ mà NBC thu thập thường mang giá trị “gỡ tội” đúng với vai trò, chức năng và nhiệm vụ của NBC.

Điểm h khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định bổ sung cho NBC quyền được thu thập, đưa ra chứng cứ. Nhưng cho đến nay pháp luật vẫn chưa có những hướng dẫn cụ thể, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho NBC thực hiện điều này nên việc NBC tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ là một việc làm rất khó khăn, nhiều khi bị coi là hành vi không hợp pháp. Ngoài ra, khi luật sư cung cấp tài liệu, đồ vật thì các CQTHTT phải tiến hành thẩm định lại tính xác thực của chứng cứ đó nhưng đôi khi các CQTHTT xem nhẹ, không thẩm định, xác minh để làm căn cứ tài liệu trong hồ sơ vụ án.

Để khắc phục hiện tượng trên, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật cụ thể để tạo sự bình đẳng hơn trong việc thu thập, cung cấp và sử dụng chứng cứ của NBC, cụ thể: Sửa đổi và bổ sung khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2015 như sau “Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí