Cơ Sở Quy Định Về Người Bào Chữa Và Quyền Của Người Bào Chữa Trong Tố Tụng Hình Sự

hiệu quả bào chữa thì NBC có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước đối với bên có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu theo quyền của NBC được pháp luật cho phép. Đây là căn cứ quan trọng để quyền của NBC được đảm bảo thực hiện.

1.1.3. Ý nghĩa quyền của người bào chữa

Quyền của NBC chính là các quyền năng mà pháp luật cho phép NBC được thực hiện thông qua hoạt động bào chữa của mình. Trong tư pháp hình sự, hoạt động bào chữa có ý nghĩa quan trọng về chính trị, xã hội và pháp lý.

Về mặt chính trị, thực hiện hoạt động bào chữa của NBC chính là nhằm thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề bảo đảm quyền con người, vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Trong tiến trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong hoạt động tố tụng đòi hỏi phải đảm bảo tôn trọng pháp luật, chống lại sự tuỳ tiện của những người có thẩm quyền, tăng cường tính tranh tụng dân chủ, tạo khung pháp lý và điều kiện cần thiết khác để người bị buộc tội và NBC thực hiện hoạt động bào chữa có hiệu quả. Ngược lại bằng hoạt động bào chữa, NBC góp phần vào việc đảm bảo pháp chế, bảo đảm pháp luật được tôn trọng và thực thi một cách nghiêm minh, bảo đảm quyền con người trong TTHS.

Về mặt xã hội, hoạt động bào chữa của NBC góp phần bảo đảm cho công lý được thực thi, bảo đảm công bằng trong TTHS, bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Việc quy định quyền của NBC còn thể hiện tính nhân đạo của pháp luật trong TTHS, nhờ đó mà quyền bào chữa của người bị buộc tội đạt hiệu quả cao nhất, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và hơn hết là bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp. Đồng thời hạn chế sự làm quyền của CQTHTT và NTHTT để không làm oan người vô tội. Qua đó cũng cố lòng tin của người dân vào pháp luật, vào CQTHTT, góp phần ổn định trật tự xã hội.

Về mặt pháp lý, hoạt động bào chữa của NBC là hoạt động cơ bản trong TTHS nhằm thực hiện chức năng bào chữa. Quyền của NBC góp phần nâng cao

tính tranh tụng trong hoạt động TTHS, đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng. Việc quy định quyền cho NBC tạo điều kiện cho họ có cơ hội gặp người bị buộc tội; tiếp cận hồ sơ vụ án; thu thập các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; tham gia vào các hoạt động điều tra khác như: lấy lời khai người làm chứng, người bị hại; đối chất giữa các bị can với nhau hay giữa bị can và người làm chứng; nhận dạng; khám nhà; kê biên tài sản; khám nghiệm hiện trường; thực nghiệm điều tra;… để NBC có điều kiện nắm bắt nội dung vụ án một cách toàn diện, xác định được mấu chốt vụ án, từ đó có cách lập luận quan điểm riêng của mình khi tranh luận tại phiên toà. Hoạt động bào chữa góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, kịp thời yêu cầu sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị các quyết định của CQTHTT để từ đó đảm bảo việc giải quyết vụ án được công minh, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giáo dục ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của nhân dân.

1.2. Cơ sở quy định về người bào chữa và quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự

1.2.1. Cơ sở lý luận , pháp lý và thực tiễn.

Quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa của người bị buộc tội là quyền Hiến định được ghi nhận đầu tiên tại điều 67 Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp 2013, nền tảng cho việc bảo đảm dân chủ hóa hoạt động tố tụng, tạo thế độc lập, bình đẳng giữa Luật sư với các chủ thể có chức năng buộc tội. Hiến pháp 2013 không có điều luật quy định trực tiếp về quyền của người bào chữa nhưng quy định gián tiếp qua quyền của người bị bắt, quyền của bị can, bị cáo tại Khoản 7, Điều 103 và Khoản 4, Điều 31.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Người bào chữa phát sinh từ quyền bào chữa nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân bị xâm hại, điều đó đồng nghĩa rằng ở đâu có việc buộc tội thì ở đó quyền bào chữa phải được thực hiện và tôn trọng nhằm chứng minh bị can, bị cáo không phạm tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Trải

qua quá trình lập hiến hơn 70 năm, nguyên tắc này đã trở thành nền tảng xuyên suốt trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Luật sư ở nước ta.

Quyền của người bào chữa từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh - 3

Ngoài ra, bảo đảm quyền bào chữa chính là bảo đảm quyền con người, một trong những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm được Hiến pháp ghi nhận. Bảo đảm quyền bào chữa chính là bảo đảm quyền con người, tuy nhiên quyền con người là khái niệm rất rộng, trong đó có quyền con người trong TTHS. Đó là tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con người bị tác động bởi hoạt động đặc thù mang tính đậm nét của quyền lực nhà nước, đó là hoạt động TTHS. Pháp luật TTHS trong Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải ưu tiên bảo vệ quyền con người trong phạm vi cân bằng giữa mục đích làm rò sự thật khách quan với việc không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự trong giai đoạn điều tra VAHS.

Người bị buộc tội có quyền có NBC được ghi nhận và đảm bảo hầu hết trong các văn kiện pháp lý quốc tế và Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam có tham gia.

Khoản 1 Điều 11, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 nêu rò “Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên toà xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình

Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị với nội dung: một người bị cáo buộc về một hành vi phạm tội sẽ có quyền được có khoảng thời gian hợp lý và các điều kiện đầy đủ để chuẩn bị cho việc bào chữa và có quyền trao đổi với NBC do mình lựa chọn; có quyền tự bào chữa hoặc thông qua NBC do mình lựa chọn; trong trường hợp một người không có NBC thì cơ quan có thẩm quyền THTT sẽ chỉ định NBC vì lợi ích chung của công lý, NBC sẽ được chỉ định miễn phí nếu người bị buộc tội không có khả năng chi trả cho NBC.

Quyền có NBC còn được bảo đảm bởi văn bản pháp lý quốc tế khác có liên quan như Bộ các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc về vai trò của luật sư.

Tại Việt Nam, Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội được quy định tại Điều 16 Hiến pháp năm 2013 của nước CHXHCN Việt Nam là một trong những quyền cơ bản của con người, của công dân, là quyền cơ bản trong số các quyền trong lĩnh vực tư pháp phải được tôn trọng và triệt để thực hiện. Nếu quyền bào chữa bị xâm phạm thì cũng khó thực hiện được các quyền tư pháp khác.

Nghị quyết 08 – NQ/TW của Bộ Chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đề ra “Khi xét xử, Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn dân sự và những người có quyền lợi hợp pháp; các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo mọi điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa;…”. Yêu cầu này đặt ra trách nhiệm của các CQTHTT, NTHTT trong việc bảo đảm cho NBC được tranh luận dân chủ tại phiên tòa cần được hoàn thiện theo hướng mở rộng quyền của NBC và đảm bảo sự bình đẳng giữa bên buộc tội và NBC trong việc thu thập, xuất trình chứng cứ, đề xuất yêu cầu và tranh luận dân chủ tại phiên tòa.

Như vậy, cơ sở pháp lý làm phát sinh hoạt động bào chữa của NBC là quyền bào chữa của người bị buộc tội và ngược lại hoạt động bào chữa của NBC là phương thức để người bị buộc tội và NBC thực hiện quyền bào chữa. Quyền của NBC được thể hiện bằng hiệu quả của hoạt động bào chữa, mà điều này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện pháp lý quy định về quyền và nghĩa vụ của NBC. NBC thực hiện hoạt động bào chữa một mặt phải dựa vào các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Mặt khác, phải bảo vệ lợi ích của nhà nước, cũng cố pháp chế XHCN, tuyên truyền pháp luật, giáo dục công dân ý thức tôn trọng pháp luật. Các CQTHTT, NTHTT phải tôn trọng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và phải bảo đảm để hoạt động bào chữa cho người bị buộc tội của NBC được thực hiện một cách thuận lợi.

Như vậy có thể thấy, địa vị pháp lý của Luật sư không thể thiếu quyền bào chữa. Quyền bào chữa là phương tiện để Luật sư thực hiện chức năng nghề nghiệp của mình. Nếu không đặt ra các chế định về quyền bào chữa cho Luật sư thì ý nghĩa của nghề Luật sư không còn nữa.

1.2.2. Quy định trong luật Tố tụng hình sự và luật Luật sư

Quyền bào chữa nhằm không để bất kỳ người nào có thể bị hạn chế hay tước bỏ quyền cơ bản này kể cả khi họ phạm tội được BLTTHS 2015 quy định tại điều 16 - Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Nội dung của quyền này cho phép người bị buộc tộicó quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa. Quyền bào chữa là quyền bác bỏ một phần, toàn bộ việc buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho người bị buộc tội. Quyền bào chữa của người bị buộc tội được thực hiện thông qua việc họ tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa, bảo vệ. Lần đầu tiên, BLTTHS 2015 đã quy định về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố ngay trước thời điểm khởi tố VAHS. Quyền bào chữa chỉ chấm dứt khi việc buộc tội chấm dứt. Đồng thời, cùng với việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, nội dung của nguyên tắc trên còn bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Các CQTHTT, những người có thẩm quyền THTT có trách nhiệm thông báo, giải thích và đảm bảo cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của BLTTHS 2015. Trên cơ sở nguyên tắc này, BLTTHS 2015 có những quy định cụ thể để bảo đảm thuận lợi cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện tốt quyền của mình.

Luật sư là một nghề xuất hiện từ rất sớm, được hình thành từ nhu cầu bào chữa và trợ giúp pháp lý, xuất hiện đầu tiên ở Châu Âu gắn liền với sự ra đời của Tòa án.

Tuy nhiên, ở Việt Nam nghề Luật sư mới hình thành và phát triển vào khoảng năm 1930, thời gian đầu chủ yếu là do các Luật sư người Pháp hành

nghề bào chữa, sau khi thực dân Pháp tổ chức Hội đồng Luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn thì mới có thêm Luật sư là người Việt Nam. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10- 10-1945 về Tổ chức Đoàn thể Luật sư dựa trên tổ chức cũ được duy trì với một số điểm sửa đổi để phù hợp với tình hình mới. Sắc lệnh này quy định cho Luật sư quyền bào chữa và các điều kiện trở thành Luật sư mà chưa quy định cho những người khác cũng có quyền bào chữa. Tiếp theo là Sắc lệnh số 69/SL ngày 18-06-1949 mở rộng tổ chức bào chữa, cho phép công dân không phải là Luật sư có thể bào chữa cho đương sự tại Tòa án về các vụ việc và thương mại, bào chữa cho bị cáo trước Tòa xét xử về hình sự.

Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 1987 ban hành ngày 18-12-1987. Đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa trong việc khôi phục nghề Luật sư mở đầu cho quá trình phát triển nghề Luật sư ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Pháp lệnh Tổ chức Luật sư quy định tiêu chuẩn để được công nhận là Luật sư, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực giúp đỡ pháp lý của Luật sư. Pháp lệnh cũng quy định về việc tổ chức Đoàn Luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Vào thời điểm 1987-1989, ở nước ta có 186 Luật sư.

Pháp lệnh Luật sư năm 2001 ban hành thay thế Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 1987 thể hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ, tổ chức và hoạt động Luật sư ở nước ta theo hướng chính quy hóa, chuyên nghiệp hóa đội ngũ luật sư, nghề Luật sư, tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp Luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế của nghề Luật sư ở Việt Nam. Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã tạo bộ mặt mới và triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề Luật sư ở nước ta. Vào thời điểm 30-09-2001, ở nước ta có 2.100 Luật sư.

Luật Luật sư lần đầu tiên được thông qua năm 2006 và Luật Luật sư năm 2015 đã góp phần nâng cao vị thế của Luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng đội ngũ Luật sư, nghề Luật sư mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm với Luật sư và nghề Luật sư các nước tiên tiến trên thế giới. Đặc biệt Luật Luật sư đã quy định hoàn chỉnh hệ thống các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư từ Trung ương tới các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Tại điều 22: Phạm vi hành nghề luật sư, quy định việc tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa chỉ là một trong 6 lĩnh vực của luật sư khi hành nghề (gồm tham gia tố tụng với các tư cách: (1) người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; (2) người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự; (3) người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.(4) người tư vấn pháp luật. (5) Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật. (6) Thực hiện dịch vụ pháp lý khác).

Như vậy, trong tố tụng hình sự nói riêng, luật sư có thể tham gia tố tụng với 1 trong 2 tư cách: Là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.

Ngoài Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và luật Luật sư 2015 đã có quy định quan trọng là “bãi bỏ quy định về việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa tại khoản 3 và khoản 4 Điều 27 của Luật luật sư số 65/2006/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 20/2012/QH13.”

Quy định này có ý nghĩa rất quan trọng quyết định tới vai trò và quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự.

1.3. Lịch sử lập pháp về quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam

Chế định NBC trong pháp luật TTHS nước ta là một trong những chế định quan trọng, ra đời rất sớm và luôn phát triển, hoàn thiện phù hợp với quá trình dân chủ hoá các hoạt động trong xã hội. Việt Nam là quốc gia có truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa, nên hệ thống tư pháp hình sự của Việt Nam về bản chất là hệ thống tố tụng thẩm vấn. Chế định bào chữa trong luật TTHS Việt Nam là tập hợp các quy định về các quyền tố tụng cũng như các biện pháp tố

tụng mà qua đó bị can, bị cáo hoặc NBC của họ có thể sử dụng để chống lại sự buộc tội, đưa ra lý lẽ và chứng cứ gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, quyền bào chữa của bị cáo gắn liền với nó là sự tham gia tố tụng của NBC đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật và liên tục được hoàn thiện. BLTTHS năm 1988 là một bước phát triển quan trọng của quá trình pháp điển hoá các quy định pháp luật về TTHS ở nước ta. Chế định về quyền bào chữa của bị can, bị cáo và quyền của NBC được quy định trong BLTTHS năm 1988 đã thể hiện được tính ưu việt so với các quy định trước đây. Quyền của NBC được quy định chi tiết hơn, phạm vi quyền được mở rộng hơn, thực quyền hơn và có biện pháp bảo đảm thực hiện rò ràng được quy định tại Điều 36 BLTTHS năm 1988. Đồng thời cũng theo Điều 36 BLTTHS năm 1988: người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can. Đây thực sự là một bước tiến mới trong TTHS Việt Nam, vì trước đó NBC chỉ được tham gia tố tụng khi hồ sơ vụ án chuyển sang toà án. Người bị buộc tội có quyền bào chữa, đặc biệt là quyền nhờ người khác bào chữa nên NBC cần tham gia ngay từ đầu

quá trình tố tụng để bảo vệ quyền cho người bị buộc tội đạt hiệu quả cao nhất.

Sau hơn 10 năm thi hành BLTTHS năm 1988, hoạt động của NBC đã góp phần nâng cao hiệu quả tố tụng trong giải quyết các vụ án hình sự ở nước ta. Tuy nhiên với xu thế phát triển của đất nước trong những điều kiện mới, các quy định trong BLTTHS năm 1988 đã hoặc tỏ ra lạc hậu, không phù hợp hoặc hạn chế hiệu quả của hoạt động TTHS nói chung và hoạt động của NBC trong TTHS nói riêng. Chẳng hạn như BLTTHS năm 1988 quy định cho NBC có quyền có mặt khi hỏi cung nhưng chỉ được đặt câu hỏi với bị can khi điều tra viên đồng ý, đồng thời cũng không có những quy định cụ thể tạo cơ chế để NBC thực hiện quyền, trách nhiệm của mình. NBC bị gây khó khăn rất khó tiếp cận các tài liệu điều tra, thậm chí nhiều quyết định tố tụng liên quan đến người bị buộc tội như trưng cầu giám định, kê biên tài sản…NBC không được biết.

Khắc phục tình trạng trên, BLTTHS năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 đã bổ sung nhiều quy định mới về quyền và nghĩa vụ của NBC, đặc biệt là mở rộng quyền của NBC được tham gia tố tụng bảo vệ lợi ích của người bị tạm giữ kể từ khi có quyết định tạm giữ của Cơ quan điều tra, quy định NBC có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/06/2022