Indonesia đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm bảo vệ nguồn lợi tự nhiên, môi trường sinh thái và đáp ứng các yêu cầu môi trường của nước nhập khẩu.
2.3.5.1. Chính sách trợ cấp đối với các hoạt động kinh tế thân thiện với môi trường như miễn thuế nhập khẩu đối với các thiết bị dùng để giảm ô nhiễm môi trường, trợ cấp cho các doanh nghiệp có các ứng dụng môi trường để hạn chế chi phí của họ, đồng thời giúp họ có sức cạnh tranh. Indonesia còn lập quỹ quốc gia để giảm ô nhiễm. Quỹ này trợ cấp cho các doanh nghiệp để xử lý vấn đề môi trường của mình dưới dạng vay vốn. Nhờ những biện pháp như vậy mà các doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí, đầu tư cải thiện tình trạng môi trường của mình, đáp ứng các yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. Chính phủ ban hành quy định: “Các dự án có tính trọng yếu về mặt môi trường phải thành lập quỹ bảo vệ môi trường và có giấy chứng nhận tiêu chuẩn môi trường” và thực hiện Chương trình phát triển bền vững.
2.3.5.2. Các công cụ thị trường khác như thuế ô nhiễm, các loại phí và áp dụng ở các mức độ khác nhau các tiêu chuẩn môi trường quốc tế như ISO 14000, ISO 9000. Nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có được các chứng nhận về môi trường, các cơ quan chức năng đã phối hợp với các tổ chức quốc tế lập các cơ sở cấp chứng nhận môi trường cho các doanh nghiệp trong nước, hỗ trợ họ về thông tin và một phần kinh phí.
2.3.5.3. Việc cấp nhãn sinh thái đối với sản phẩm cũng là một cố gắng của Indonesia trong việc thích nghi dần với môi trường cạnh tranh mới. Nhãn hiệu sinh thái quốc gia Indonesia cấp cho các sản phẩm gỗ và các sản phẩm có nguồn gốc đa dạng sinh học khác. Điều này đã hạn chế được sức ép nhập khẩu gỗ từ Indonesia. Viện nhãn sinh học quốc gia Indonesia được giao nhiệm vụ tiến hành nghiên cứu các tiêu chuẩn và tiêu chí đối với hệ thống quản lý rừng có hiệu quả. Viện này đồng thời cũng giám sát thực địa để xem các tiêu chuẩn đặt ra phù hợp với trình độ hay chưa. Hiện tại ở Indonesia đã sử dụng hai loại nhãn đối với sản phẩm gỗ: (1) Dán nhãn toàn bộ, căn cứ vào việc phân tích toàn bộ vòng đời sản phẩm. Tức là đánh giá tác động môi trường của sản phẩm đó từ khi còn là nguyên liệu thô cho đến khi trở thành phế liệu và (2) Nhãn sinh học đơn, tức là chỉ xác định ảnh hưởng môi trường
của sản phẩm tại một giai đoạn nhất định. Tuy nhiên việc áp dụng này đã làm hạn chế thương mại ngành gỗ do tăng chi phí ở khâu chứng nhận mác sinh học và kiểm định chất lượng rừng trồng.
2.3.5.4. Về kiểm dịch động thực vật: Tất cả các mặt hàng thực phẩm nhập khẩu vào Indonesia đều phải tuân theo yêu cầu về y tế và an toàn (Bao gồm việc đăng ký với Bộ Y tế) và các tiêu chuẩn quốc gia Indonesia (SNI). Ngoài ra, từ tháng 5/2000, hoa quả nhập khẩu cần phải có giấy chứng nhận là không có sâu bệnh, và khoai tây nhập khẩu không chứa mầm bệnh. Các mặt hàng thực phẩm nhập khẩu vào Indonesia phải có giấy chứng nhận kiểm dịch y tế thực phẩm kèm theo lô hàng nhập khẩu. Theo quy định của cơ quan kiểm dịch thực phẩm Indonesia (Bedan POM), hàng hóa thực phẩm phải được chứng nhận cụ thể như sau: các loại thực phẩm phù hợp tiêu chuẩn vệ sinh quy định, thích hợp cho người sử dụng, được phép xuất nhập khẩu.
Một số mặt hàng thực phẩm nhất định cần phải có giấy chứng nhận halal, nghĩa là động vật đã được giết mổ theo giới luật Hồi giáo và phải được thông qua trước khi nhập khẩu. Đồng thời, thực phẩm phải có giấy chứng nhận không chứa dioxin.
Kể từ năm 1996, việc sản xuất, nhập khẩu và phân phối các phụ gia thực phẩm (như vitamin, khoáng chất, chiết xuất, amino acid, dạng cô đặc hoặc hỗn hợp) đều phải được các công ty dược phẩm hoặc các công ty phụ gia thực phẩm đăng ký với chính quyền địa phương, và phải được sản xuất tuân theo thông lệ về sản xuất thực phẩm. Các yêu cầu về vệ sinh an toàn đều được thiết lập cùng với các giới hạn tối đa hàng ngày đối với vitamin và khoáng chất.
Tất cả các thực phẩm chế biến đều được Văn phòng quốc gia về Kiểm soát Thuốc và Thực phẩm (BPOM) của Indonesia kiểm tra. Các mặt hàng thực phẩm nhập khẩu phải có sổ đăng ký do BPOM cấp. Việc nhập khẩu động vật sống cũng cần phải có giấy chứng nhận đã được kiểm tra do dịch vụ Thú ý Indonesia cấp.
Tất cả các thiết bị y khoa, đồ trang sức và các thiết bị y tế gia dụng đều phải đăng ký với Văn phòng Thực phẩm và Thuốc. Dược phẩm nhập khẩu và sản xuất
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Định Của Pháp Luật Một Số Nước Về Bảo Vệ Môi Trường Trong Thương Mại Quốc Tế
- Quy Định Về Tiêu Chuẩn Đối Với Hàng Hóa
- Quy Định Về Tiêu Chuẩn Đối Với Hàng Hóa Và Dịch Vụ
- Biện Pháp Kiểm Dịch Động Thực Vật
- Một Số Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam
- Các quy định của pháp luật thương mại quốc tế liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường - 15
Xem toàn bộ 157 trang tài liệu này.
nội địa cũng cần phải có chứng nhận phân tích từ nhà sản xuất. Thuốc bán không cần đơn bác sỹ thì phải có sách hướng dẫn sử dụng kèm theo. Các nhà bán lẻ bị cấm việc tái đóng gói hoặc pha trộn thuốc. [18]
2.3.5.5. Tham gia vào các hiệp định thương mại và môi trường thế giới cũng là một trong những biện pháp hạn chế ô nhiễm môi trường trong nước và giúp các doanh nghiệp Indonesia nâng cao nhận thức về yêu cầu môi trường trong thương mại quốc tế hiện đại.
Bên cạnh những biện pháp chung để đối phó với các rào cản môi trường các nước, Indonesia đã có nhiều biện pháp cụ thể để nâng cao khả năng đáp ứng các yêu cầu môi trường của nước nhập khẩu đối với một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đặc biệt là thủy sản.
Riêng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và đánh bắt hải sản, Indonesia ngoài việc quan tâm tới việc nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, còn đặc biệt quan tâm tới vấn đề bảo vệ môi trường và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Indonesia đã có những chính sách, biện pháp mạnh và đồng bộ để quản lý hoạt động nuôi trồng và chế biến nông thủy sản, hạn chế tối đa mức ô nhiễm môi trường để đảm bảo sức khỏe cho người dân, nâng cao khả năng cạnh tranh và uy tín của hàng nông thủy sản xuất khẩu.
Để đáp ứng tốt các quy định môi trường của các nước như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ đối với nhập khẩu hàng nông thủy sản, Indonesia đã triển khai thực hiện: Quản lý hoạt động nuôi trồng và chế biến nông thủy sản chặt chẽ và thống nhất từ trung ương đến địa phương; kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu thức ăn, hóa chất, kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật phục vụ nuôi trồng nông thủy sản, đặc biệt là những chất gây ô nhiễm môi trường; đầu tư thiết bị kiểm tra hiện đại; đào tạo và nâng cao trình độ của cán bộ kiểm tra; xây dựng quy phạm thực hành nuôi tốt (GAP) và áp dụng đại trà trong cả nước; nghiên cứu lai tạo giống thủy sản có năng suất, chất lượng cao, tạo ra giống thủy sản sạch; công tác khuyến ngư, đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến các quy định về môi trường các nước đối với hàng nông thủy sản nhập khẩu cho các hộ nuôi trồng nông thủy sản, tập huấn, chuyển giao công
nghệ về nuôi trồng thủy sản sạch, sơ chế và bảo quản nguyên liệu cho nông, ngư dân; xây dựng các trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường tại các vùng nuôi.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng, các chính sách thương mại, tài nguyên và môi trường có vai trò hỗ trợ lẫn nhau, nhằm thúc đẩy phát triển bền vững và thực sự nó đang nỗ lực giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường. Do đó, một quốc gia để đạt được mục tiêu trở thành một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, bền vững cần khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tự nhiên. Trong xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại, các nước đang phát triển rất quan tâm tới việc chống lại và loại bỏ khả năng tiếp cận thị trường của các sản phẩm nhập khẩu vào nước họ mà không tuân thủ các quy trình sản xuất, các sản phẩm không phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường. Qua việc nghiên cứu pháp luật thực định của một số nước về bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế, có thể thấy rằng mỗi nước đều đặt ra cho mình những nguyên tắc xử sự riêng của mình nhưng không nằm ngoài xu thế trên của thương mại quốc tế.
Đối với các nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu trên thế giới, có thị trường khó tính như Mỹ, Trung Quốc, Thụy Điển... họ có hành lang pháp lý bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu dùng rất chặt chẽ, hệ thống. Họ có các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kiểm định tiêu chuẩn chất lượng hoạt động quy củ và có chế tài xác đáng đối với các hành vi phi phạm các quy định liên quan đến bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Họ có các tiêu chuẩn chặt chẽ từ khâu sản xuất đến tiêu dùng sản phẩm, những tiêu chuẩn về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn về môi trường, nhãn mác bao bì sản phẩm… quy định khắt khe và dường như tạo ra những rào cản thương mại buộc các nước xuất khẩu phải vượt qua.
Đối với các quốc gia có nền kinh tế hoạt động chủ yếu dựa vào xuất khẩu như Thái Lan, Indonesia, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu mang tính nhạy cảm với môi trường như: hàng nông sản, thủy sản, gạo, da giầy, dệt may… Là các nước thuộc khu vực Đông Nam Á - khu vực có điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi cho sự
tăng trưởng kinh tế. Chính sách pháp luật, các biện pháp phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, các biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật sang các thị trường khó tính luôn là tôn chỉ hoạt động của các nước này. Để đáp ứng yêu cầu nhập khẩu của các nước phát triển, Thái Lan, Indonesia phải đưa ra những chính sách sản xuất hợp lý, tuân thủ và thực hiện theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mang tính quốc tế như: ISO 9001, ISO 14000, HACCP…
Đối với mặt hàng thực phẩm, các nước này luôn có định hướng cho doanh nghiệp xây dựng khu sản xuất, nuôi trồng đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng, kiểm tra chặt chẽ dư lượng độc tố, nguồn thuốc phòng bệnh. Chính phủ của họ luôn chú trọng đầu tư, hỗ trợ về công nghệ và chuyên gia, giúp cho việc nuôi trồng và phương pháp đánh bắt không tổn hại môi trường; cập nhật và cung cấp thông tin kịp thời về các yêu cầu môi trường của nước nhập khẩu.
Doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và các nhà hoạch định pháp luật Việt Nam nói chung cần có tiếp thu có chọn lọc trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm để áp dụng vào thực tiễn nước ta. Việc ứng dụng kinh nghiệm phát triển thương mại và bảo vệ môi trường của các quốc gia này vào Việt Nam sẽ được triển khai rò hơn tại Chương 3 của luận văn.
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.
3.1. Thực trạng của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế
3.1.1. Tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đối với sản phẩm
3.1.1.1. Một số quy định của pháp luật Việt Nam
Việt Nam được kết nạp vào WTO ngày 7/11/2006 và chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh này từ 11/01/2007. Đối với Hiệp định TBT, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ và toàn diện Hiệp định kể từ thời điểm gia nhập. Để thực hiện cam kết này, Chính phủ đã chủ động chỉ đạo các bộ, ngành liên quan xây dựng chương trình hành động từ năm 2002 đồng thời ban hành một số văn bản sau:
Quyết định số 444/2005/QĐ-TTg ngày 26/5/2005 về việc phê duyệt đề án triển khai thực hiện Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại.
Quyết định số 114/2005/QĐ-TTg ngày 26/5/2005 về việc thành lập và ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của mạng lưới cơ quan thông báo và điểm hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại.
Việc ban hành và thực hiện hai Quyết định trên đã góp phần đẩy nhanh đàm phán gia nhập WTO liên quan đến hàng rào kỹ thuật trong thương mại, đặt cơ sở cho việc tổ chức các hoạt động có liên quan đến TBT trong thời kỳ “hậu WTO”. Điều này chứng tỏ Việt Nam quyết tâm thực hiện các cam kết của mình đối với Hiệp định này, trong đó có việc hình thành ban liên ngành về TBT và mạng lưới TBT của Việt Nam.
Trên cơ sở hai quyết định trên, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Quyết định số 05/2007/QĐ-BKHCN ngày 30/03/2007, kèm theo quyết định là chương trình thực hiện đề án triển khai thực hiện Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại giai đoạn 2006 – 2010 bao gồm: Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam, triển khai quy hoạch và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật của hoạt động đánh giá sự phù hợp, tăng cường hợp tác
quốc tế về các vấn đề liên quan đến TBT, hoạt động của ban liên ngành về TBT và mạng lưới TBT, công tác tuyên truyền phổ biến, đánh giá kết quả thực thi đề án và đề ra các biện pháp tiếp theo.
Quyết định 07/2006/QĐ-BKHCN ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, đưa ra quy chế tổ chức và hoạt động của Ban liên ngành về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) đã được thành lập theo Quyết định số 444/QĐ- TTg ngày 26 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ và theo Quyết định số 2788/QĐ-BKHCN ngày 3 tháng 11 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ về thành viên Ban liên ngành về hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Theo đó, Ban liên ngành về TBT được thành lập nhằm tăng cường sự phối hợp hành động giữa các Bộ, ngành trong việc thi hành Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ở Việt Nam nhằm thực hiện các nghĩa vụ quy định trong Hiệp định TBT và đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc gia.
Luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 quy định về hoạt động xây dựng, công bố và áp dụng tiêu chuẩn; xây dựng, ban hành và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật; đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
Theo đó, việc xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật phải bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh tế - xã hội, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế; đáp ứng yêu cầu về an toàn, an ninh quốc gia, vệ sinh, sức khoẻ con người, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan, bảo vệ động vật, thực vật, môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên; hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật phải bảo đảm công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử và không gây trở ngại không cần thiết đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại. Việc xây dựng tiêu chuẩn phải bảo đảm sự tham gia và đồng thuận của các bên có liên quan; dựa trên tiến bộ khoa học và công nghệ, kinh nghiệm thực tiễn, nhu cầu hiện tại và xu hướng phát triển kinh tế - xã hội; sử dụng tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài làm cơ sở để xây dựng tiêu chuẩn và quy
chuẩn kỹ thuật, trừ trường hợp các tiêu chuẩn đó không phù hợp với đặc điểm về địa lý, khí hậu, kỹ thuật, công nghệ của Việt Nam hoặc ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia; ưu tiên quy định các yêu cầu về tính năng sử dụng sản phẩm, hàng hóa; hạn chế quy định các yêu cầu mang tính mô tả hoặc thiết kế chi tiết; bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tiêu chuẩn và hệ thống quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam. [27]
Luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2007 quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá; quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Bên cạnh đó, Luật cũng liệt kê những hành vi bị nghiêm cấm, đó là: Sản xuất sản phẩm, nhập khẩu, mua bán hàng hoá đã bị Nhà nước cấm lưu thông; không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; không có nguồn gốc rò ràng; đã hết hạn sử dụng; dùng thực phẩm, dược phẩm không bảo đảm chất lượng hoặc đã hết hạn sử dụng làm từ thiện hoặc cho, tặng để sử dụng cho người; cố tình cung cấp sai hoặc giả mạo kết quả thử nghiệm, kiểm tra, giám định, kiểm định, chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa; giả mạo hoặc sử dụng trái phép dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy, các dấu hiệu khác về chất lượng sản phẩm, hàng hóa; thay thế, đánh tráo, thêm, bớt thành phần hoặc chất phụ gia, pha trộn tạp chất làm giảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa so với tiêu chuẩn công bố áp dụng hoặc quy chuẩn kỹ thuật tương ứng [28].
Luật an toàn thực phẩm có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011, Luật gồm 11 chương, 72 điều, quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong bảo đảm an toàn thực phẩm; điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm, sản xuất, kinh doanh thực phẩm và nhập khẩu, xuất khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi nhãn thực phẩm; kiểm nghiệm thực phẩm; phân tích nguy cơ đối với an toàn thực phẩm; phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm; thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm; trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
Trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm theo Điều 5 Luật an toàn thực phẩm thì những hành vi bị cấm: Sử dụng nguyên liệu không thuộc loại dùng cho thực phẩm