1. Pháp luật môi trường Việt Nam tuy ra đời chậm hơn so với pháp luật môi trường thế giới nhưng đã thể hiện được xu hướng thương mại hóa trên thế giới với những quy định pháp luật về việc sử dụng các CCKT trong Luật BVMT và các văn bản luật về khai thác tài nguyên thiên nhiên. Đó là những quy định pháp luật về việc:
- Triển khai áp dụng các quy định của pháp luật về thuế BVMT.
- Phí BVMT cụ thể là phí nước thải, phí BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản.
- Nghĩa vụ phục hồi môi trường thông qua việc ký quỹ trong lĩnh vực khai thác khoáng sản.
2. Từ những nội dung đã trình bày ở trên cho thấy pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT ở Việt Nam đã phát huy được vai trò nhất định trong quản lý và BVMT. Bên cạnh đó, pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT ở nước ta còn bộc lộ hạn chế, đó là:
- Sự thể chế hóa quan điểm sử dụng CCKT trong quản lý và BVMT bằng các quy định pháp luật trong một số trường hợp còn sơ sài, chỉ dừng lại ở những quy định khung trong luật.
- Còn thiếu một số CCKT trong quản lý nhà nước về môi trường như: thiếu việc áp dụng giấy phép phát thải trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường... Điều này thể hiện Nhà nước vẫn sử dụng công cụ “Mệnh lệnh – kiểm soát” là chủ yếu trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm môi trường.
- Việc sử dụng thuế và phí nhằm tạo nguồn thu ngân sách phục vụ cho sự nghiệp BVMT vẫn còn nhiều thiếu sót, cụ thể thiếu sự áp dụng các loại phí BVMT như: phí đánh vào sản phẩm, phí đánh vào người tiêu dùng. Điều này hạn chế nguồn tài chính cho công việc kiểm soát ô nhiễm cũng như BVMT.
- Chưa có cơ sở pháp lý cho việc áp dụng biện pháp ký quỹ, đặt cọc - hoàn trả nhắm tới đối tượng là người tiêu dùng, chỉ mới bắt đầu áp dụng việc ký quỹ phục hồi môi trường trong lĩnh vực khoáng sản. Đây là một hạn chế của những quy định pháp luật Việt Nam vì phạm vi áp dụng biện pháp ký quỹ, đặt cọc - hoàn trả rất rộng gồm các lĩnh vực sản xuất kinh doanh có tiềm năng gây ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường như: khoáng sản, rừng, vật liệu xây dựng và xây dựng cơ bản.
3. Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về sử dụng các CCKT trong
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp Luật Về Phí Bảo Vệ Môi Trường Đối Với Chất Thải Rắn
- Pháp Luật Về Chế Tài Xử Phạt Các Hành Vi Vi Phạm Pháp Luật Về Bảo Vệ Môi Trường
- Tình Hình Thực Thi Việc Kiểm Tra, Thanh Tra Và Xử Lý Vi Phạm Pháp Luật Trong Lĩnh Vực Bảo Vệ Môi Trường
- Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Sử Dụng Các Công Cụ Kinh Tế Trong Bảo Vệ Môi Trường Ở Việt Nam
- Nhóm Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Sử Dụng Các Công Cụ Nâng Cao Trách Nhiệm Xã Hội Trong Hoạt Động Bvmt
- Nhóm Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Chế Tài Xử Phạt Trong Bảo Vệ Môi Trường
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
BVMT ở Việt Nam tại chương 3 sẽ làm tiền đề cho việc xác định những yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT ở Việt Nam trong thời gian tới. Nội dung này được tác giả trình bày tại chương 4 của Luận án.
CHƯƠNG 4
QUAN ĐIỂM, YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
4.1. Quan điểm và mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế bảo vệ môi trường ở Việt Nam
kinh tế bảo vệ môi trường ở Việt Nam
BVMT là vấn đề mang tính cấp thiết toàn cầu đòi hỏi quốc gia nào trên trái đất cũng đều phải quan tâm và có thái độ tích cực đối với việc BVMT.
Phát triển KT-XH gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học, chủ động phòng tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi và tiếp tục giải quyết hậu quả chiến tranh còn lại đối với môi trường. Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, cần tăng cường quản lý nhà nước đi đôi với yêu cầu cải thiện môi trường trong quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi yêu cầu về môi trường là tiêu chí quan trọng đánh giá các giải pháp phát triển [118].
Áp dụng các CCKT trong BVMT là giải pháp phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường, đảm bảo người gây ra thiệt hại và được hưởng lợi từ môi trường phải trả tiền [24].
Quán triệt quan điểm trên, Nhà nước ta cần từng bước áp dụng các CCKT trong BVMT và coi việc đẩy mạnh áp dụng pháp luật sử dụng các CCKT trong BVMT là giải pháp quan trọng nhằm thực hiện Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, coi chương trình nghiên cứu, xây dựng và sử dụng các CCKT trong BVMT là một trong 36 chương trình, kế hoạch, đề án và dự án ưu tiên cấp quốc gia về BVMT. Các quan điểm cụ thể:
Quan điểm 1: BVMT phải được coi là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế, của tiến trình CNH-HĐH, không tách rời quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Mục đích thực sự của việc phát triển là cải thiện chất lượng cuộc sống con người chứ không thể hiện chỉ ở tăng trưởng kinh tế. Để đánh giá một nước có phát triển hay không, ngày nay ngoài việc căn cứ vào sự tăng trưởng đạt được, người ta
còn quan tâm nhiều hơn đến các yếu tố “ngoại kinh tế” trong đó có mức độ ô
nhiễm môi sinh, tỷ lệ sinh tử, chế độ an ninh xã hội … Như vậy, phát triển kinh tế không phải là một bài toán đơn giản mà nó đòi hỏi phải quan tâm hơn đến cái giá phải trả cho sự tăng trưởng kinh tế, nghĩa là phải chú ý đến vấn đề BVMT.
Để không phạm những sai lầm đã và đang phải trả giá đắt của nhiều quốc gia vì coi nhẹ vấn đề môi trường trong quá trình phát triển kinh tế, nước ta cần phải coi phát triển kinh tế và BVMT là hai mặt quan trọng của một quá trình thống nhất. Trước mắt cũng như lâu dài, sự phồn vinh về kinh tế và môi trường thiên nhiên lành mạnh là các mục tiêu bổ trợ cho nhau. Để đảm bảo tính lâu bền của sự phát triển nhằm tạo ra một xã hội bền vững, BVMT phải được coi là một bộ phận của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và quan trọng là phải được thực thi đến nơi đến chốn. Đồng thời cần có sự kết hợp chặt chẽ nguyên tắc bền vững trong tất cả các kế hoạch phát triển và các kế hoạch kinh tế khác của Nhà nước và địa
phương để
đảm bảo sự
cân đối hài hoà giữa các mục tiêu về
kinh tế
và môi
trường. Chính vì vậy vấn đề trọng tâm trong việc xây dựng các kế hoạch phát triển là lồng ghép nội dung BVMT vào kế hoạch đầu tư.
Quan điểm 2: Thực hiện bãi bỏ
dần những khoản trả
tài trợ
dẫn đến
khuyến khích hành động làm suy thoái nguồn tài nguyên và môi trường, áp dụng nguyên tắc PPP và BPP, đảm bảo cho giá cả sản phẩm phản ánh toàn bộ chi phí xã hội của việc áp dụng hoặc làm suy thoái nguồn tài nguyên.
Để bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai và sức khoẻ con người trong những năm tới cần xoá bỏ dần việc tài trợ qua giá hoặc ưu đãi qua thuế đối với các sản phẩm thuốc trừ sâu hoặc các sản phẩm khác mà khi sử dụng thường gây độc hại cho môi trường và gây nguy hiểm cho sức khoẻ con người. Lâu nay ở nước ta, hầu hết các DN tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh hầu như không quan tâm đến những hậu quả do họ gây ra làm suy thoái, ô nhiễm môi trường. Những chi phí do thiệt hại về môi trường được họ coi như tiền lãi trong kinh doanh. Mối hiểm hoạ nguy hại này đối với đất nước cần phải được ngăn chặn kịp thời. Để thúc đẩy viêc nâng cao trách nhiệm của những người sử dụng nguồn tài nguyên môi trường cũng như để hạn chế tình trạng gây ô nhiễm môi trường, đòi hỏi các DN từng bước phải tính đủ chi phí xã hội của sản phẩm được sản xuất ra. Quán triệt quan điểm này sẽ thúc đẩy cả người sản xuất và người tiêu dùng đều phải quan tâm BVMT, tuân thủ pháp luật và tích cực hưởng ứng việc thực hiện các nguyên tắc PPP và BPP.
Quan điểm 3: Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi và phân cấp cho các địa phương quản lý môi trường, đẩy mạnh xã hội hoá công tác BVMT.
BVMT là một công việc mang tính chất xã hội rộng lớn đòi hỏi phải thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Luật BVMT nước ta đã chỉ rõ đây là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của mỗi người cho nên cần phòng ngừa ô nhiễm là chính, đồng thời tuân thủ dần nguyên tắc PPP. Phần lớn những hoạt động sáng tạo và có hiệu quả cao của các cá nhân và tổ chức đều xảy ra trong từng địa phương. Do nắm vững tình hình thực tế và có quyền lợi nên các địa phương có thể quyết định được những gì ảnh hưởng đến họ và đóng một vai trò rất quan trọng không thể thiếu được trong việc xây dựng một xã hội an toàn, bền vững.
Nhà nước cần tạo điều kiện cho các địa phương được quyền quản lý, sử dụng lâu dài đất đai và các nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống vì không có
điều kiện đó thì họ
sẽ không tích cực sử
dụng tài nguyên một cách bền vững.
Chính quyền địa phương phải là những thành viên tích cực của chính quyền TW trong việc quyết định những chính sách, chương trình, kế hoạch có ảnh hưởng trực tiếp đến địa phương, đến môi trường và nguồn tài nguyên đang nuôi sống họ. Họ cũng phải là đơn vị chủ chốt để BVMT, có nhiệm vụ kế hoạch hoá sử dụng đất đai, kiểm soát sự phát triển, cung cấp nước sạch, xử lý nước thải, rác phế thải, chăm sóc sức khoẻ, giao thông công cộng và giáo dục. Vì vậy, họ cần có đủ nguồn tài chính để đầu tư tổ chức, điều hành và quản lý BVMT.
Quan điểm 4: Xây dựng hệ thống luật về môi trường hoàn chỉnh nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý và BVMT, thúc đẩy các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt việc xây dựng xã hội bền vững và hạn chế các hiện tượng tiêu cực làm suy thoái môi trường.
Về mặt pháp lý, trước đây Nhà nước ta cũng đã ban hành một số văn bản pháp luật có liên quan đến môi trường nhưng nói chung cũng chỉ mới nhằm giải quyết từng phần, từng vấn đề riêng lẻ. Từ năm 1994, Luật BVMT đã có hiệu lực thi hành theo tinh thần gắn chặt chính sách kinh tế với chính sách môi trường. Đây là văn kiện pháp lý đề cập đến vấn đề môi trường một cách toàn diện với quy mô rộng lớn và hiệu quả cao nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với môi trường và cũng là biện pháp để nước ta có thể hoà nhập với cuộc sống chung của cộng đồng thế giới. Song để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa văn bản luật với thực thi trong cuộc sống, đòi hỏi Nhà nước cần sớm ban hành những văn bản dưới
luật, những quy định liên quan đến BVMT nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành luật một cách chi tiết.
Quan điểm 5: Sử dụng đồng bộ pháp luật về các CCKT để thực hiện mục tiêu chung là BVMT
Giữ gìn và BVMT là sự nghiệp của toàn dân, môi trường cũng là một lĩnh vực mang tính liên ngành cao, do đó để giải quyết hàng loạt vấn đề về môi trường đang đặt ra ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải có sự nỗ lực lớn lao của Nhà nước và điều quan trọng đặt ra là phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ về chính sách cũng như hành động giữa các ngành có liên quan với nhau vì mục tiêu chung là BVMT trong quá trình phát triển của ngành mình, chấm dứt hiện tượng có nhiều ngành chỉ tập trung, cố gắng để đạt được mục tiêu riêng theo chức năng của mình, bất chấp tình trạng môi trường ra sao. Khi sự phối hợp liên ngành được chặt chẽ sẽ vừa hỗ trợ cho nhau trong việc thực hiện mục tiêu chung BVMT vừa nhằm giải quyết những mâu thuẫn có thể xảy ra giữa BVMT với các lĩnh vực khác trong quá trình phát triển đất nước.
4.1.2. Mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Mục tiêu tổng quan của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT là nhằm bổ sung vào hệ thống các chính sách, công cụ quản lý và BVMT được đánh giá là linh hoạt, hiệu quả và kinh tế, đồng thời tạo ra một động lực mới, để thực hiện thành công Chiến lược BVMT quốc gia giai đoạn 2001
– 2010 và định hướng đến năm 2020 cũng như hoạt động quản lý và BVMT trong tương lai, góp phần đạt mục tiêu phát triển bền vững mà Đại hội lần thứ X của
Đảng đề ra cho giai đoạn 2011 – 2015 là “... đạt được bước chuyển biến quan
trọng và nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển” [118].
Mục tiêu cụ thể là:
- Thông qua công cụ pháp luật để bảo đảm phát huy vai trò của CCKT trong quản lý và BVMT.
- Quy định hợp lý các loại phí BVMT, thuế BVMT, mức ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên, quỹ cải tạo, phục hồi môi trường ... nhằm một mặt thay đổi hành vi của con người, mặt khác nhằm bù đắp một phần chi phí cho hoạt động quản lý và BVMT.
- Hình thành nên nguồn lực tài chính nhằm hỗ trợ các tổ chức, cá nhân thực hiện các dự án đầu tư cho hoạt động BVMT.
- Giảm thiểu ô nhiễm môi trường do các hoạt động kinh tế và sinh hoạt gây
ra.
- Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với BVMT.
4.2. Các yêu cầu đối với pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Quan điểm về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước luôn được nhấn mạnh, xuyên suốt qua các mục tiêu, nhiệm vụ của từng thời kỳ. Theo
đó, để phát triển đất nước bền vững
cần
phải
có sự kết
hợp cân đối,
hài hoà
giữa ba nội dung: phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và BVMT. BVMT
được xem là nội dung quan trọng, không thể tách rời trong quá trình phát triển
kinh tế. Phương thức quản lý môi trường ở nước ta trong thời gian qua chủ yếu tập trung vào sử dụng công cụ CAC và cơ sở pháp lý cao nhất, vững vàng nhất là Luật BVMT. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật còn bao gồm các văn bản dưới
luật quy định chi tiết về quản lý và BVMT. Tuy nhiên trước yêu cầu
đổi
mới,
công tác quản lý và BVMT đã và đang biểu
hiện
nhiều bất cập, khó khăn, tình
hình ô nhiễm môi trường gia tăng, nguồn thu từ môi trường cho nền kinh tế quốc dân còn hạn chế. Trong bối cảnh đó, công tác quản lý và BVMT đòi hỏi phải có
những thay đổi
cơ bản
trong cơ chế hoạt
động
và phương thức
điều
hành. Sử
dụng các CCKT trong BVMT là một
chủ trương lớn phù hợp
với quá trình phát
triển
của
đất
nước, đồng bộ với
thể chế kinh tế thị trường t h e o định hướng
xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT cần phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Thứ nhất, đảm bảo hệ thống quản lý đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường
Tại Việt Nam, việc áp dụng pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT phải được thực hiện đồng bộ với việc thực hiện KTTT theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước đã xác định. KTTT là mô hình kinh tế được
thực hiện cơ chế thông qua quá trình mua bán, trao đổi và chịu sự chi phối của
một
số quy luật như:
quy luật
cung cầu, quy luật cạnh
tranh, quy luật giá trị
thặng dư và quy luật lưu thông tiền tệ. Trong nền KTTT, giá cả là yếu tố trung tâm, thông qua quy luật cung cầu sẽ điều tiết hoạt động của thị trường, Đảng và
Nhà nước ta đã xác định rõ “xây dựng nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa” là nền kinh tế mở có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, vận hành và hoạt động đạt hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo công bằng xã hội. Việc áp dụng pháp luật về sử
dụng
các CCKT, các công cụ hỗ trợ, đổi
mới cơ chế chính sách B VM T phù
hợp với nền kinh tế thị trường cũng không nằm ngoài yêu cầu trên.
- Thứ hai, phát triển bền vững lĩnh vực môi trường
Từ thời kỳ xa xưa, con người đã biết dựa vào tự nhiên, khai thác tự nhiên
để phục
vụ cho tiêu dùng, sinh hoạt
thường ngày. Cuộc
sống hiện
tại
có sự
phân cực lớn về lối sống, mức sống, tiêu dùng, sản xuất...Dân số thế giới ngày càng tăng, nhu cầu về các sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng gia tăng cả về số lượng, chủng loại, gây ảnh hưởng tới môi trường, làm môi trường biến đổi theo
hướng tiêu cực,
tác động
xấu
tới
hệ sinh thái. Các yếu
tố môi trường đang bị
lạm dụng, sử dụng quá mức dẫn đến tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Do vậy,
yêu cầu
nâng cao hiệu
quả quản
lý về môi trường là yêu cầu
cấp
thiết. Việc
nghiên cứu, kết hợp nhiều công cụ khác nhau sẽ giúp giải quyết những vấn đề
mới
phát sinh. Kinh tế hoá trong lĩnh vực
môi trường cần
đạt
được mục
tiêu
BVMT, đảm
bảo sự phát triển
bền vững.
Sự phát triển
xã hội
phải
vừa
đảm
bảo phát triển kinh tế vừa giải quyết được các vấn đề môi trường đặt ra, ngăn
ngừa ô nhiễm. Sự phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển xã hội, nâng cao
và cải thiện chất lượng cuộc sống.
- Thứ ba, tạo
nguồn
thu cho ngân sách quốc gia, nâng tầm đóng góp
của lĩnh vực môi trường đối với nền kinh tế quốc dân
Việc
tăng cường xây dựng
cơ chế,
triển khai kinh tế hoá lĩnh vực
môi
trường cần đạt được mục tiêu tăng thu ngân sách quốc gia, góp phần nâng cao tỷ
lệ đóng góp của
lĩnh vực
môi trường nói riêng và ngành tài nguyên môi trường
nói chung trong quá trình phát triển. Pháp luật về sử dụng các CCKT trong BVMT sẽ phù hợp với nền KTTT hiện nay là dùng những biện pháp nhằm tác động tới chi
phí và lợi ích của các cá nhân, tổ chức thường xuyên tác động tới môi trường,
tăng cường trách nhiệm,
ý thức và hành vi của
họ theo hướng có lợi cho môi
trường. Việc
thực hiện
hiệu
quả pháp luật sử
dụng
các công cụ nói trên góp
phần thực hiện tốt hai nguyên tắc cơ bản đã được thừa nhận đó là “Người gây
ô nhiễm tiền”
môi trường
phải
trả tiền” và “Người hưởng lợi từ môi trường phải trả