Thực Trạng Quản Trị Vốn Của Các Nhtm Việt Nam Theo Hiệp Ước Basel

(ii) Mức độ sẵn sàng về khuôn khổ pháp lý và quản lý;

(iii) Các chuẩn mực kế toán;

(iv) Nguồn nhân lực và đội ngũ chuyên gia;

(v) Tính lành mạnh trong quản trị doanh nghiệp;

(vi) Kỷ luật thị trường;

(vii) Sự có mặt và mức độ đáng tin cậy của các công ty xếp hạng tín dụng;

(viii) Các vấn đề về sân chơi bình đẳng.


CHƯƠNG 2


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.

THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KINH DOANH CỦA NHTM VIỆT NAM THEO HIỆP ƯỚC BASEL

2.1. Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam

Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 29

Hệ thống NHTM Việt Nam hình thành và phát triển từ năm 1990, đến nay đã trở thành 1 mạng lưới rộng khắp. Cơ chế hoạt động: 2 cấp trong đó Ngân hàng Nhà nước quản lý mọi mặt liên quan tới hoạt động ngân hàng. Theo số liệu của NHNN, tính đến tháng 6/2011, cả nước có 53 ngân hàng, trong đó có 5 NHTM Nhà nước, 1 Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, 37 NHTM cổ phần tư nhân, 5 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và 48 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài. Đến thời điểm hiện tại, trong số 5 NHTM Nhà nước có 3 ngân hàng đã cổ phần hóa là Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam và Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, song Nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần chính, nên xét một cách tương đối, tác giả vẫn xếp ba ngân hàng này vào nhóm NHTM Nhà nước.

Trong số các định chế tài chính nói trên, 5 NHTM Nhà nước chiếm gần 60% thị phần tổng thể các dịch vụ ngân hàng thông qua mạng lưới dày đặc các chi nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch, máy giao dịch tự động, máy thanh toán thẻ tín dụng,… trên toàn quốc.

Về năng lực hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam:

- Huy động vốn: Hoạt động huy động vốn của hệ thống TCTD có tốc độ tăng trưởng nhanh dần theo tháng và tính chung cả năm 2011 tăng trưởng cao hơn tốc độ

10

tăng trưởng tín dụng. So với các năm qua, tỷ trọng huy động vốn của các NHTM Nhà nước đang có chiều hướng giảm xuống, từ mức khoảng 80% vào đầu những năm 2000, đến nay chỉ còn chiếm khoảng gần 45%. Một trong những nguyên nhân của sự giảm sút về thị phần chính là sự vươn lên của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần. Các NHTM cổ phần tạo được một lợi thế cạnh tranh tương đối bằng cách nâng cao chất lượng phục vụ, đa dạng hóa các loại hình sản phẩm dịch vụ, nâng cao tiềm lực tài chính và đặc biệt là tăng lãi suất huy động vốn lên cao.

- Tín dụng đóng vai trò quan trọng trong sự lưu thông tiền tệ của nền kinh tế. Trong 10 năm qua, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân vào nhóm cao của thế giới, xấp xỉ 32%, cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP cùng thời kỳ.

- Tổng phương tiện thanh toán: Tổng phương tiện thanh toán (M2) tăng liên tục qua các tháng phù hợp với diễn biến tăng trưởng tín dụng và huy động vốn. Theo báo cáo hoạt động ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước ban hành tháng 12/2011, tổng phương tiện thanh toán tính đến ngày 21/12/2011 tăng 9,27% so với cuối năm 2010, so với chỉ tiêu đặt ra theo Nghị quyết 11 là 15 – 16%, trong đó tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng tăng 5,49%.

- Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận: tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trung bình năm 2008 đạt 26%, năm 2009 đạt 47%, năm 2010 đạt trên 25% và năm 2011 đạt khoảng

35%.

2.2. Thực trạng quản trị rủi ro trong kinh doanh của NHTM Việt Nam theo Hiệp ước Basel

Trong những năm gần đây, các NHTM Việt Nam đã bắt đầu quan tâm tới hoạt động quản trị rủi ro như một phần trong chiến lược kinh doanh của mình nhằm tăng cường mức độ an toàn hoạt động và phát huy lợi thế cạnh tranh, thông qua việc đầu tư công nghệ để đáp ứng các chuẩn mực quản trị rủi ro. Nhiều ngân hàng đã tìm kiếm các giải pháp quản trị rủi ro thông qua các đơn vị tư vấn nước ngoài như McKinsey, Deloitte, Ernst&Young,…Tuy nhiên, nhìn chung, mô hình quản trị rủi ro của hệ thống NHTM Việt Nam chưa đồng bộ, mang tính đơn lẻ và chưa thực sự hiệu quả.

2.2.1. Thực trạng quản trị vốn của các NHTM Việt Nam theo Hiệp ước Basel

11

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (hệ số an toàn vốn) để đảm bảo hoạt động ngân hàng được an toàn theo Trụ cột thứ nhất của Hiệp ước Basel được tính toán theo công thức sau:


Với cách tiếp cận này để có cơ sở đánh giá thực trạng quản trị nguồn 1


Với cách tiếp cận này, để có cơ sở đánh giá thực trạng quản trị nguồn vốn tại các NHTM Việt Nam so với công thức tính của Basel, Luận án đánh giá, xem xét từng yếu tố cấu thành công thức tính hệ số an toàn vốn nêu trên bao gồm vốn tự có và các loại rủi ro ảnh hưởng tới chất lượng tài sản có tại các NHTM Việt Nam.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành một số văn bản quy định về vốn tự có như Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín dụng, Thông tư 13/TT-NHNN quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, Thông tư 19/TT-NHNN, Thông tư 22/2011/TT-NHNN, Thông tư 33/2011/TT-NHNN sửa đổi một số nội dung của thông tư 13.

- Về tình hình vốn tự có:

Nhóm các NHTM nhà nước: Tại thời điểm năm 2000, trước thực trạng tỷ lệ nợ xấu quá cao, có nguy cơ dẫn đến sự phá sản của các Ngân hàng Thương mại Nhà nước, các Ngân hàng Thương mại Nhà nước đều xây dựng Chương trình tái cơ cấu mà nội dung chính là cải thiện tình hình tài chính thông qua việc tăng quy mô vốn tự có và xử lý nợ xấu. Sau khi được Chính phủ cấp vốn, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng này lên hơn 18.000 tỷ đồng, trong tổng số vốn tự có của toàn bộ hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam là 35.000 tỷ đồng (chiếm 51%).

Nhóm các NHTM cổ phần: từ năm 2000 đến nay, các NHTMCP đã hoạt động tốt hơn và có thể tự bổ sung vốn khá lớn. Ngoài ra, các NHTMCP còn liên tục bổ sung vốn tự có thông qua việc phát hành cổ phiếu mạnh mẽ, làm tăng nhanh chóng vốn tự có qua các năm, góp phần nâng cao đáng kể hệ số hoạt động an toàn của các NHTMCP.

Như vậy, vốn của các NHTM Việt Nam hiện nay tuy đã được cải thiện song vẫn còn cách biệt rất lớn so với mức vốn của một ngân hàng, một tập đoàn tài chính

12

ở mức trung bình của nước ngoài. Vốn điều lệ hạn chế sẽ khiến các NHTM gặp nhiều khó khăn trong việc cung ứng vốn đầu tư, đặc biệt cho các dự án lớn. Hơn nữa, Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập, đặc biệt, khi Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các đối thủ cạnh tranh là các NHTM nước ngoài sẽ tràn vào với thế mạnh về vốn rất lớn, vì vậy, quy mô về vốn của các NHTM Việt Nam chắc chắn phải tăng hơn nữa nhằm vừa đảm bảo hệ số hoạt động an toàn, vừa đảm bảo khả năng mở rộng kinh doanh, đáp ứng các yêu cầu mới từ thị trường.

- Về quản trị rủi ro:

Rủi ro tín dụng: Trong số các hoạt động kinh doanh của NHTM thì tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu nhưng rủi ro lớn, hiệu quả đạt được không tương xứng với mức độ rủi ro thực tế đã và đang tiếp tục là nguyên nhân tạo ra nguy cơ đe dọa an toàn hoạt động của các NHTM. Theo báo cáo của NHNN Việt Nam, tổng dư nợ cho nền kinh tế tính đến 31/12/2011 của hệ thống ngân hàng khoảng 3.120.000 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ nợ xấu là khoảng 3,6%. Tuy nhiên, theo Fitch – một trong ba tổ chức giám định tài chính có uy tín nhất trên thế giới, chất lượng nợ thực sự của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn yếu, do chuẩn kế toán của Việt Nam còn lỏng lẻo so với chuẩn quốc tế IFRS. Nếu phân loại nợ một cách nghiêm ngặt theo chuẩn IFRS thì việc ngân hàng đáp ứng được các yêu cầu mới về vốn sẽ trở nên khó thực hiện hơn.

Các NHTM đã đưa ra một số biện pháp nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng như: Chấn chỉnh và ban hành mới các văn bản chế độ nhằm quản lý rủi ro tín dụng tốt hơn; Xây dựng và áp dụng hệ thống cho điểm tín dụng; Phân loại nợ; Trích lập dự phòng rủi ro; Thiết lập giới hạn tín dụng an toàn và giới hạn tín dụng tối đa với khách hàng và lĩnh vực kinh doanh chiến lược.

Rủi ro thị trường: Đối với Việt Nam, bên cạnh các quy định về giao dịch hối đoái, Việt Nam hiện chưa ban hành các quy định về rủi ro thị trường như chứng khoán, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn và sản phẩm phái sinh. Đáng lưu ý là Việt Nam chưa áp dụng nguyên tắc của Hiệp ước Basel về điều chỉnh tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với rủi ro thị trường do rủi ro thị trường ở Việt Nam hiện nay

13

chưa đóng vai trò trọng yếu trong rủi ro hoạt động ngân hàng của các TCTD. Bên cạnh đó, kinh nghiệm và kỹ năng của thanh tra ngân hàng về rủi ro thị trường và các sản phẩm phái sinh cũng còn hạn chế.

Rủi ro tác nghiệp: Các NHTM Việt Nam vẫn chưa nhận thức đúng và đủ các loại hình rủi ro tác nghiệp, vì vậy, chưa một ngân hàng nào có nguồn dự phòng thích đáng và phù hợp đối với loại hình rủi ro này. Tuy nhiên, có thể khẳng định rủi ro tác nghiệp đối với hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay rất lớn, đặc biệt khi thị trường tài chính, tiền tệ, ngân hàng mở cửa trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Rủi ro tác nghiệp có thể chuyển thẳng sang tổn thất nghiêm trọng, trực tiếp đối với ngân hàng, thậm chí trong một số trường hợp làm rung chuyển toàn bộ hệ thống tài chính tiền tệ của đất nước.

Rủi ro thanh khoản: hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản tại các NHTM Việt Nam còn nhiều yếu kém do cả các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Hiện tại, một số ngân hàng đã áp dụng công cụ định giá vốn điều chuyển FTP giúp kiểm soát rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản tương đối hiệu quả.

Tóm lại: Có thể thấy, các NHTM Việt Nam đã có những nỗ lực lớn trong việc tăng vốn tự có và hầu hết các NHTM cổ phần đều đã đạt được hệ số an toàn vốn (CAR) trên 8%, song, nếu so sánh với cách tính hệ số an toàn của Basel tức là tính đến cả vốn dành cho rủi ro thị trường thì chắc chắn rất ít NHTM Việt Nam đạt được tỷ lệ an toàn vốn ở mức trên 8%.

2.2.2. Thực trạng công tác thanh tra, giám sát hoạt động và tuân thủ các quy định pháp luật của hệ thống ngân hàng Việt Nam theo Hiệp ước Basel

Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thiết lập một cơ cấu tổ chức thanh tra, giám sát ngân hàng khá rõ nét theo Mô hình chức năng phân tán, tức là các chức năng thanh tra giám sát ngân hàng không tập trung vào một bộ phận mà phân tán và được thực hiện bởi các Vụ, Cục khác nhau trong NHNN Việt Nam. Phương pháp thanh tra giám sát tại các ngân hàng là phương pháp thanh tra tuân thủ. Phương pháp này còn nhiều hạn chế và không còn phù hợp với tình hình phát triển hiện nay.


14

Tại các NHTM: áp dụng hệ thống kiểm tra, kiểm soát theo mô hình: Ban kiểm soát trực thuộc hội đồng quản trị; Phòng/ban kiểm tra nội bộ trực thuộc ban điều hành; Phòng/bộ phận kiểm tra nội bộ tại các chi nhánh tương đương một phòng ban khác. Với việc xây dựng hệ thống thanh tra giám sát như trên, các NHTM đã gia tăng hiệu quả trong công tác quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, cho đến nay, các NHTM vẫn chưa ban hành văn bản quy định nào hướng dẫn quy trình thực hiện kiểm tra giám sát trong nội bộ NHTM một cách thống nhất do NHNN Việt Nam vẫn chưa có một văn bản quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ cũng như trình tự thực hiện của công tác thanh tra, giám sát tại các NHTM.

Công tác thanh tra, giám sát hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế và nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết, đặc biệt khi so sánh với các nguyên tắc của Basel. Đây thực sự là thách thức lớn đối với hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian tới.

2.2.3. Thực trạng vấn đề công bố thông tin thống kê theo nguyên tắc thị trường tại các NHTM Việt Nam

Hệ thống thông tin thống kê của mỗi NHTM Việt Nam vừa phải đáp ứng nhu cầu báo cáo thống kê cho NHNN Việt Nam, cho Tổng cục/chi cục thống kê để các cơ quan quản lý nhà nước này thực hiện chức năng của mình theo quy định của Pháp luật. Đồng thời, đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê cho hoạt động quản trị kinh doanh của ngân hàng.

Để đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành của NHNN, từng bước tiến dần phù hợp thông lệ quốc tế, NHNN đã ban hành các văn bản quy định về báo cáo định kỳ và đột xuất khiến công tác thống kê của NHNN đã có những thay đổi căn bản, đáp ứng nhu cầu thông tin trong điều kiện hội nhập quốc tế. Ngoài ra, NHNN cũng ban hành các quy định về chế độ báo cáo tài chính với TCTD, Quy định về vấn đề thu nhập thông tin về an toàn trong hoạt động ngân hàng, Quy định về kiểm toán độc lập và công bố thông tin về tài chính và hoạt động của TCTD.



15

Các NHTM bên cạnh việc tuân thủ chế độ thống kê do thống đốc NHNN và Tổng cục thống kê ban hành đều phải xây dựng, bổ sung những chỉ tiêu báo cáo thống kê phục vụ cho quản lý kinh doanh nội bộ. Đối với nhóm ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, thông tin thống kê và thông tin kế toán rất đầy đủ, giúp đơn vị quản trị tốt các loại rủi ro tài chính, đồng thời, biết rõ điểm yếu, điểm mạnh, tiềm năng thị trường, tiềm năng của đơn vị trong kinh doanh. Trong khi đó, đối với các NHTM Việt Nam, chất lượng các thông tin rất khác nhau, một số ngân hàng thực hiện tương đối tốt công tác thông tin thống kê, một số ngân hàng lại thực hiện chưa tốt hoạt động này.

Tóm lại: hoạt động báo cáo thống kê tại các NHTM Việt Nam hiện nay còn một số hạn chế về khuôn khổ pháp lý, tính đầy đủ và chính xác của số liệu cung cấp. tính minh bạch và công khai thông tin. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là do: NHNN chưa thiết lập hệ thống các quy định về việc công khai và minh bạch thông tin; Trình độ ứng dụng CNTT của các NHTM còn nhiều bất cập và thiếu đồng bộ; Các NHTM chưa thực sự nghiêm túc trong việc chấp hành chất lượng báo cáo thống kê; và Đội ngũ cán bộ thống kê còn thiếu cả về số lượng và chất lượng.

2.3. Đánh giá chung về hoạt động quản trị rủi ro trong kinh doanh của các NHTM Việt Nam theo Hiệp ước Basel

2.3.1. Các kết quả đạt được


Thứ nhất, các ngân hàng đã chú trọng nhiều hơn trong việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.

Thứ hai, hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng cũng được các ngân hàng chú trọng.

Thứ ba, công tác công bố thông tin theo nguyên tắc thị trường đã được thực hiện đều đặn và minh bạch hơn.


16

2.3.2. Một số tồn tại và nguyên nhân


- Cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ liên quan đến công tác quản trị rủi ro, thanh tra kiểm soát và công bố thông tin chưa hợp lý dẫn đến chồng chéo, không phân định rõ ràng trách nhiệm

- Các quy định, chính sách kinh doanh và quản trị rủi ro vừa yếu, vừa thiếu, vừa không đồng bộ

- Năng lực trình độ cán bộ thấp, thiếu kinh nghiệm


- Công nghệ lạc hậu, lỗi thời Nguyên nhân tồn tại:

Theo kết quả khảo sát tại 21 NHTM Việt Nam, 95,24% các ngân hàng nhận thức được rằng công tác quản trị rủi ro có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, 100% các ngân hàng đều rất quan tâm tới Hiệp ước Basel và 90,48% ngân hàng đánh giá rằng Hiệp ước Basel có vai trò quan trọng trong việc củng cố an toàn tài chính cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, những yếu tố gây khó khăn nhiều nhất đối với việc áp dụng Basel trong quản trị rủi ro kinh doanh của hệ thống NHTM Việt Nam được các ngân hàng chỉ ra bao gồm nguồn nhân lực chưa đáp ứng đủ điều kiện, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế, và cơ sở pháp lý còn sơ sài và chưa đồng bộ.

Bên cạnh đó, mặc dù khi được hỏi, các NHTM đều khẳng định vai trò quản trị rủi ro là rất quan trọng, song thực tế, các NHTM lại không tập trung đầu tư vào năng lực quản trị rủi ro như tuyên bố. Cụ thể: 85,71% các ngân hàng ưu tiên mở rộng quy mô tổng tài sản trong chiến lược hoạt động của ngân hàng; 71,43% ngân hàng tập trung vào mục tiêu thứ hai là tăng vốn chủ sở hữu để đạt tốc độ tăng tài sản lớn hơn. Hoạt động đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin tập trung, xây dựng năng lực quản trị dữ liệu là hoạt động quan trong nhất nhưng lại được các ngân hàng xếp ưu tiên chiến lược thấp nhất. Ngoài ra còn một số nguyên nhân sau:

- Quy mô vốn của các NHTM nhỏ, trong khi tầm hoạt động lại lớn.

- Các ngân hàng vẫn chưa chú trọng vào công tác xây dựng chính sách, quy trình, quy chế.

- Công tác tuyển dụng và đào tạo không đáp ứng được yêu cầu công việc.

17

Xem tất cả 277 trang.

Ngày đăng: 03/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí