Bài Học Rút Ra Từ Thực Tiễn Áp Dụng Hiệp Ước Basel Trong Quản Trị Rủi Ro Tại Một Số Nước Trên Thế Giới


1.3.3. Bài học rút ra từ thực tiễn áp dụng Hiệp ước Basel trong quản trị rủi ro tại một số nước trên thế giới

Thứ nhất, Hiệp ước Basel và các quy định, hướng dẫn trong Hiệp ước là những chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro trong hoạt động của NHTM. Mặc dù đầu tiên, Hiệp ước Basel được thiết kế để áp dụng đối với các NHTM lớn, có quy mô hoạt động quốc tế đáng kể tại nhóm 10 nước phát triển là thành viên của BIS, nhưng thực tiễn đã chứng minh nó cũng phù hợp với ngành ngân hàng ở các quốc gia khác, kể cả các quốc gia đang phát triển vì tính khoa học và thực tiễn trong tiếp cận công tác quản trị rủi ro và giám sát an toàn hoạt động NHTM mà Hiệp ước Basel đưa ra.

Thứ hai, việc áp dụng Hiệp ước Basel phụ thuộc vào trình độ phát triển của ngành tài chính ngân hàng cũng như nền kinh tế của nước chủ nhà. Do những phương pháp quản trị rủi ro mà Hiệp ước Basel đưa ra dựa trên nền tảng quản trị rủi ro đối với hoạt động của các NHTM tiên tiến, các quốc gia nên lựa chọn từng phần nội dung phù hợp để cụ thể hoá thành các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của các loại TCTD nước mình. Trong khi phương pháp đánh giá nội bộ (IRB) trong quản trị rủi ro tín dụng, các chuẩn mực quản trị rủi ro tác nghiệp mang tính phức tạp và đòi hỏi NHTM phải có trình độ quản lý và cơ cấu tổ chức tiên tiến mới áp dụng được, các quy định về tính toán tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu trên tài sản có rủi ro, phương pháp Chỉ số cơ bản (BIA) và phương pháp chuẩn hoá (Standardised Approach - SA) thường được phần lớn các quốc gia áp dụng trước.

Thứ ba, các quốc gia tự xây dựng cho mình một lộ trình áp dụng Basel riêng, chia thành từng bước, từng giai đoạn và trên cơ sở định kỳ rà soát lại để điều chỉnh cho phù hợp với môi trường kinh tế. Tiến hành đồng thời các nghiên cứu lượng hoá tác động (QIS) để đánh giá mức độ chấp nhận của thị trường (các NHTM) đối với các quy định về giám sát an toàn do cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng đưa ra.

Thứ tư, kinh nghiệm các nước cho thấy mức độ sẵn sàng áp dụng Hiệp ước Basel và đặc biệt là Basel II phụ thuộc vào một số yếu tố như:

(i) Hiện trạng của hệ thống quản lý rủi ro của ngân hàng;


(ii) Chi phí/lợi ích dự tính;


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.

(iii) Mức độ áp lực của ngân hàng trung ương;


(iv) Sự chuẩn bị thực hiện Basel của ngân hàng đối thủ.


Nếu nhìn từ góc độ của một ngân hàng trung ương, những yếu tố sẽ được cân nhắc khi chuẩn bị thực hiện Hiệp ước mới bao gồm:

(i) Các ưu tiên quốc gia;


(ii) Mức độ sẵn sàng về khuôn khổ pháp lý và quản lý;


(iii) Các chuẩn mực kế toán;


(iv) Nguồn nhân lực và đội ngũ chuyên gia;


(v) Tính lành mạnh trong quản trị doanh nghiệp;


(vi) Kỷ luật thị trường; các vấn đề về sân chơi bình đẳng;


(vii) Sự có mặt và mức độ đáng tin cậy của các công ty xếp hạng tín dụng.


CHƯƠNG 2


THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KINH DOANH CỦA NHTM VIỆT NAM THEO HIỆP ƯỚC BASEL‌

2.1. Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam

2.1.1. Lịch sử hình thành

Có thể tóm lược quá trình phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam được tính từ thời điểm ngày 6/5/1951. Tuy nhiên, vai trò của các NHTM với ý nghĩa là một chủ thể của nền kinh tế thị trường mới chỉ bắt đầu cách đây 22 năm, kể từ tháng 5/1990 với sự ra đời của hai pháp lệnh về ngân hàng. Hai pháp lệnh này đã lần đầu tiên chính thức chuyển đổi cơ chế hoạt động của hệ thống ngân hàng từ 1 cấp sang 2 cấp, trong đó Ngân hàng nhà nước (NHNN) thực thi nhiệm vụ quản lý Nhà nước về mọi mặt hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và điều hoà lưu thông tiền tệ; phát hành tiền, điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất và tỷ giá chung trên toàn quốc; lấy trách nhiệm giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu. Trong khi đó, các NHTM được ra đời tập trung vào hoạt động kinh doanh theo đúng nghĩa (hạch toán chi phí, mục tiêu sinh lời), tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình.

Ở cấp độ ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại nhà nước được khuyến khích hoạt động theo hướng thương mại hơn. Các khoản nợ xấu có nguồn gốc từ trước đã được phân loại và xử lý thông qua một số chương trình xử lý nợ trên phạm vi cả nước. Cho vay theo chỉ định và cho vay chính sách đã bắt đầu được tách khỏi các hoạt động thương mại với sự ra đời của Ngân hàng người nghèo tiền thân của Ngân hàng chính sách hiện nay, và sự ra đời của Quỹ hỗ trợ phát triển nay là Ngân hàng phát triển. Các ngân hàng thương mại cổ phần được củng cố để vượt qua những khó khăn và sự đổ vỡ vào những ngày đầu mới thành lập. Quản trị ngân hàng cũng đã được cải thiện với việc ban hành mẫu điều lệ mới cho các ngân hàng thương mại cổ phần. Cũng có vài vụ sáp nhập bắt buộc để loại bỏ những ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ không có khả năng tồn tại. Kết quả, quan niệm thương mại trong hệ thống ngân hàng đã được tăng cường, khu vực ngân hàng đã được củng cố


và Việt Nam đạt được sự ổn định tài chính kể cả khi khu vực xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997.

Tháng 12/1997, hai luật về ngân hàng Việt Nam là Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng chính thức ra đời và có hiệu lực từ ngày 1/10/1998. Đây là một bước phát triển cao hơn về khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng và dịch vụ tài chính của Việt Nam, mở đường cho sự phát triển của ngành.

Vào đầu năm 2001, Việt Nam tiếp tục thực hiện một chương trình cải cách hệ thống ngân hàng toàn diện được tiến hành trong nhiều năm nhằm tăng cường khuôn khổ thể chế, giám sát và quản lý cho một khu vực ngân hàng hiệu quả hơn; đa dạng hoá khu vực ngân hàng thông qua phát triển thị trường vốn; nâng cao tính minh bạch và tự chịu trách nhiệm của khu vực tài chính; cải thiện năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng; áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế vào hoạt động ngân hàng; xây dựng các chính sách khuyến khích các NHTM hoạt động trên cơ sở thương mại hơn.

Mục đích chính của chương trình cải cách là nâng cao năng lực cạnh tranh cho từng ngân hàng trong nước và toàn bộ hệ thống để chuẩn bị hội nhập quốc tế. Cơ chế quản lý tín dụng, ngoại hối và lãi suất được nới lỏng để phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Những hạn chế đối với hoạt động của các ngân hàng nước ngoài đã được xoá bỏ dần. Đã có sự minh bạch hơn trong quá trình xây dựng các quy định và trong giám sát ngân hàng. Khuôn khổ pháp lý tiếp tục được cải cách. Điểm cốt lõi trong các nỗ lực cải cách đối với các NHTM là tăng vốn cho các ngân hàng này, bao gồm tăng vốn điều lệ, tiến tới đạt được hệ số an toàn vốn theo tiêu chuẩn quốc tế là 8% và giải quyết vấn đề nợ xấu. Quá trình cơ cấu lại đã đạt được một số tiến bộ. Khoảng gần 5 nghìn tỷ đồng trong vốn điều lệ của 5 ngân hàng thương mại nhà nước là do Chính phủ cấp. Các ngân hàng thương mại nhà nước đã được kiểm toán bởi các tổ chức kiểm toán quốc tế, phù hợp với các tiêu chuẩn kế toán quốc tế. Phần lớn các ngân hàng thương mại cổ phần đã tăng vốn điều lệ tối thiểu để đạt mức vốn pháp định.

Về mặt thể chế, các NHTM đã được tổ chức lại để tăng cường chất lượng quản trị và hợp lý hoá cơ cấu tổ chức của ngân hàng. Cơ sở hạ tầng công nghệ


thông tin cũng đã được hiện đại hoá hơn, tạo điều kiện cho các ngân hàng có thể cung cấp các dịch vụ mới cho thị trường. Các quy trình và thủ tục kinh doanh mới đã được đưa vào áp dụng trong lĩnh vực tín dụng, quản lý tài sản “Nợ”, tài sản “Có”, kiểm toán nội bộ và quản trị rủi ro. Mặc dù, quá trình cải cách đã đạt được những kết quả nhất định nêu trên, nhưng hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến độ an toàn, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của toàn hệ thống.

Tồn tại lớn nhất của hệ thống ngân hàng Việt Nam là sự chi phối của các ngân hàng thương mại nhà nước. Về mặt truyền thống, trên thế giới, các ngân hàng thương mại nhà nước đã có những người chủ yếu kém, không có khả năng đem lại một kết quả kinh doanh bền vững hoặc thực hiện các quy định an toàn tương tự như được đặt ra cho các ngân hàng tư nhân. Chính phủ Việt Nam đã nhìn thấy và đề ra lộ trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước. Nhưng dường như tiến độ thực hiện đã quá thận trọng hơn mức cần thiết. Một số chuyên gia nước ngoài còn cho rằng các ngân hàng thương mại nhà nước có thể làm suy yếu lẫn nhau nếu thực thi những chiến lược giống nhau và trở thành những ngân hàng đa năng. Dường như khuyến cáo trên đang được chính các ngân hàng này hiện thực hoá bằng những bước đi tương tự như việc bán cổ phần cho những nhà đầu tư chiến lược, liên kết với các tổng công ty lớn và kinh doanh đa lĩnh vực.

Tồn tại quan trọng khác làm hạn chế khả năng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng là quy mô nhỏ của khu vực ngân hàng thương mại cổ phần và quy mô nhỏ cả về tuyệt đối và tương đối của từng ngân hàng thương mại cổ phần. Cuối năm 2006 và những tháng đầu năm 2007 đã chứng kiến cuộc đua tăng vốn điều lệ của các ngân hàng này với việc bán cổ phần cho các ngân hàng nước ngoài và tổ chức, cá nhân trong nước. Những bước đi này đã góp phần tăng năng lực tài chính, tạo điều kiện cho các ngân hàng hiện đại hoá nền tảng công nghệ, nâng cao kỹ năng quản trị nhưng nhìn chung còn nhiều việc phải làm. Một trong những vấn đề cần quan tâm đó là chất lượng của các khoản vay. Đó là lí do Ngân hàng Nhà nước ban hành Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 trong đó khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của các tổ chức tín dụng. Sau đó, Ngân hàng Nhà nước ban


hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN ngày 1/2/2008 về việc cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư vào kinh doanh chứng khoán (Quyết định này đã hết hiệu lực ngày 01/10/2010), và Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, trong đó quy định tổng dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.

Trong nỗ lực xây dựng một khuôn khổ chung cho quản trị hoạt động ngân hàng thương mại, ngày 16/6/2010, Quốc hội đã ban hành Luật số 47/2010/QH12 – Luật các tổ chức tín dụng quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng với nền tảng dựa trên Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2004. Luật có hiệu lực từ ngày 01/01/2011. Luật các Tổ chức tín dụng quy định cụ thể về quản trị điều hành và kiểm soát của NHTM, hệ thống kiểm tra, kiểm soát, công tác kiểm toán và báo cáo của NHTM.

Đến nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã được thiết lập thành một mạng lưới cung cấp dịch vụ ngân hàng phong phú, phục vụ mọi thành phần kinh tế. Theo số liệu của NHNN, tính đến tháng 6/2011, cả nước có 53 ngân hàng, trong đó có 5 NHTM Nhà nước, 1 Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, 37 NHTM cổ phần tư nhân, 5 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và 48 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài. Đến thời điểm hiện tại, trong số 5 NHTM Nhà nước có 3 ngân hàng đã cổ phần hóa là Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (cổ phần hóa tháng 12/2007), Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (cổ phần hóa tháng 12/2008) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (mới cổ phần hóa tháng 12/2011), song Nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần chính, nên xét một cách tương đối, tác giả vẫn xếp các ngân hàng này vào nhóm NHTM Nhà nước.

Trong số các định chế tài chính nói trên, 5 NHTM Nhà nước chiếm gần 60% thị phần tổng thể các dịch vụ ngân hàng thông qua mạng lưới dày đặc các chi nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch, máy giao dịch tự động, máy thanh toán thẻ tín dụng,… trên toàn quốc.


2.1.2. Năng lực hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam

2.1.2.1. Huy động vốn

Hoạt động huy động vốn của hệ thống NHTM Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tăng dần trong giai đoạn 2008 – 2010. Tính đến cuối tháng 12/2010, tổng huy động vốn từ nền kinh tế của hệ thống ngân hàng tăng 31,49% so với cuối năm trước (đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 2,62%/tháng), cao hơn so với mức tăng 25,32% của cùng kỳ năm 2009 (tăng trưởng bình quân 2,11%/tháng). Năm 2011, tổng huy động vốn giảm còn 20% so với cuối năm 2010. Nguyên nhân khiến tổng huy động vốn giảm một phần là do quy định trần lãi suất của NHNN.

Biểu đồ 2.1: Diễn biến huy động vốn từ nền kinh tế giai đoạn 2001 – 2013e


Nguồn IBM Xét theo các nhóm TCTD huy động vốn của các nhóm TCTD có sự phân hóa 1

Nguồn: IBM Xét theo các nhóm TCTD: huy động vốn của các nhóm TCTD có sự phân

hóa rõ rệt, tăng mạnh tại nhóm NHTMCP và nhóm công ty tài chính, cho thuê tài chính trong khi chỉ tăng khá đối với nhóm NHTMNN và nhóm ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.


Biểu đồ 2.2: Tỷ trọng huy động vốn năm 2010


Nguồn Báo cáo thường niên 2010 của Ngân hàng Nhà nước So với các năm qua tỷ 2

Nguồn: Báo cáo thường niên 2010 của Ngân hàng Nhà nước

So với các năm qua, tỷ trọng huy động vốn của các NHTM Nhà nước đang có chiều hướng giảm xuống, từ mức khoảng 80% vào đầu những năm 2000, đến nay chỉ còn chiếm khoảng gần 45%. Một trong những nguyên nhân của sự giảm sút về thị phần chính là sự vươn lên của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần. Các NHTM cổ phần tạo được một lợi thế cạnh tranh tương đối bằng cách nâng cao chất lượng phục vụ, đa dạng hóa các loại hình sản phẩm dịch vụ, nâng cao tiềm lực tài chính và đặc biệt là tăng lãi suất huy động vốn lên cao.

2.1.2.2. Tín dụng

Tín dụng đóng vai trò quan trọng trong sự lưu thông tiền tệ của nền kinh tế. Trong 10 năm qua, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân vào nhóm cao của thế giới, xấp xỉ 32%, cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP cùng thời kỳ.

Xem tất cả 277 trang.

Ngày đăng: 03/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí