Trong số các hoạt động kinh doanh của NHTM thì tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu nhưng rủi ro lớn, hiệu quả đạt được không tương xứng với mức độ rủi ro thực tế đã và đang tiếp tục là nguyên nhân tạo ra nguy cơ đe dọa an toàn hoạt động của các NHTM. Cấp tín dụng là hoạt động tạo ra trên 80% tổng thu nhập, trong khi đó thu ngoài lãi (dịch vụ, phí, lãi kinh doanh ngoại hối và đầu tư,…) còn thấp. Như phân tích ở trên cho thấy, trong những năm qua, tăng trưởng tín dụng của ngành ngân hàng Việt Nam đạt tỷ lệ khá cao, khả năng huy động vốn của các ngân hàng vẫn vững song hầu như vẫn không theo kịp đà tăng trưởng tín dụng.
Tại nhiều hệ thống ngân hàng, tăng trưởng tín dụng quá nóng thông thường là chỉ báo về chất lượng các khoản vay bởi năng lực kiểm soát rủi ro thường yếu đi khi ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động quá nhanh. Không chỉ có vậy, năng lực cơ sở hạ tầng và quản lý rủi ro của ngân hàng cũng không theo kịp tốc độ tăng trưởng tín dụng. Bên cạnh đó, các khoản vay ngoại tệ (chiếm gần 20% tổng các khoản vay trong toàn ngành ở thời điểm năm 2010) vẫn là mối lo lớn do áp lực đồng nội tệ mất giá.
Biểu đồ 2.9: Thống kê tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2003 - 2011
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Theo báo cáo của NHNN Việt Nam, tổng dư nợ cho nền kinh tế tính đến 31/12/2011 của hệ thống ngân hàng khoảng 3.120.000 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ nợ
Có thể bạn quan tâm!
- Bài Học Rút Ra Từ Thực Tiễn Áp Dụng Hiệp Ước Basel Trong Quản Trị Rủi Ro Tại Một Số Nước Trên Thế Giới
- Diễn Biến Tăng Trưởng Tín Dụng Giai Đoạn 2001 – 2013E
- Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Trong Kinh Doanh Của Nhtm Việt Nam Theo Hiệp Ước Basel
- Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 14
- Thực Trạng Công Tác Thanh Tra, Giám Sát Hoạt Động Và Tuân Thủ Các Quy Định Pháp Luật Của Hệ Thống Ngân Hàng Việt Nam Theo Hiệp Ước Basel
- Một Số Hạn Chế Trong Công Tác Thanh Tra, Giám Sát Hệ Thống Nhtm Việt Nam Hiện Nay
Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.
xấu khoảng 3,6%. Tuy nhiên, theo Fitch – một trong ba tổ chức giám định tài chính có uy tín nhất trên thế giới, chất lượng nợ thực sự của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn yếu, do chuẩn kế toán của Việt Nam còn lỏng lẻo so với chuẩn quốc tế IFRS. Nếu phân loại nợ một cách nghiêm ngặt theo chuẩn IFRS thì việc ngân hàng đáp ứng được các yêu cầu mới về vốn sẽ trở nên khó thực hiện hơn.
Do đó, có thể thấy, so với thông lệ quốc tế, mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng tại các NHTM Việt Nam, đặc biệt các NHTM NN còn rất cao và khó lường trước các hậu quả xảy ra. Theo kết quả khảo sát tại 21 NHTM trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, rủi ro tín dụng vẫn là loại rủi ro có tốc độ gia tăng mạnh nhất trong thời gian gần đây trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, chiếm 57,14% số câu trả lời và 80,95% ngân hàng đều đánh giá rằng các loại rủi ro có ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh ngân hàng (Xem thêm phụ lục số 06). Chính vì vậy, việc phân tích và áp dụng các chuẩn mực Basel trong quản trị rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo sự an toàn không những trong hoạt động của các NHTM Việt Nam mà còn là sự an toàn của toàn bộ nền kinh tế.
b. Các biện pháp NHTM đã thực hiện nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng
Chấn chỉnh và ban hành mới các văn bản chế độ nhằm quản lý rủi ro tín dụng tốt hơn
Nhận thức rằng rủi ro tín dụng luôn tác động tiêu cực trực tiếp đến kết quả kinh doanh, trong những năm vừa qua, các NHTM Việt Nam đã chú trọng hơn đến việc ban hành các văn bản nhằm quản lý tốt rủi ro tín dụng. Ngoài những văn bản hướng dẫn các quy định về cho vay và bảo đảm tiền vay với khách hàng, các NHTM còn ban hành quy trình cho vay với các bước thực hiện hết sức cụ thể; quy định rõ ràng chức năng và nhiệm vụ của mỗi vị trí cán bộ tham gia cấp tín dụng đến khách hàng; tách biệt khâu thẩm định và khâu quyết định cho vay… Ngoài ra, các NHTM còn ban hành các văn bản quy định về khu vực đầu tư được phép, thẩm quyền phán quyết cụ thể tại từng cấp bậc trong ngân hàng, sổ tay tín dụng,…
Trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, NHTM có nghĩa vụ chấp hành quy định của NHNN Việt Nam về các tỷ lệ bảo đảm an toàn và giới hạn để đảm bảo an toàn và trích lập dự phòng rủi ro.
Xây dựng và áp dụng hệ thống cho điểm tín dụng
Để có thể chủ động đối phó với rủi ro, các NHTM thường sử dụng hệ thống cho điểm tín dụng như là một công cụ hữu hiệu để đo lường rủi ro tín dụng đối với khách hàng. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, trong những năm trở lại đây, các NHTM Việt Nam đã bước đầu nghiên cứu và đưa vào sử dụng Hệ thống cho điểm tín dụng như tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng TMCP Á Châu,…
Thông qua kết quả cho điểm tín dụng, các NHTM sẽ đề ra:
Chính sách đối xử với khách hàng;
Quyết định mức cho vay an toàn (xác định giới hạn tín dụng áp dụng tối đa đối với mỗi khách hàng);
Áp dụng biện pháp theo dõi quản lý thích hợp.
Trên thực tế, hệ thống cho điểm tín dụng cũng mang tính tương đối do đặc thù hình thành và phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam là phần lớn doanh nghiệp còn đang trong giai đoạn đầu, hoạt động chưa ổn định. Vì vậy, chưa thể xây dựng một hệ thống cho điểm tín dụng đảm bảo đưa ra kết quả tính toán chính xác. Do đó, các chức năng và công dụng của hệ thống cho điểm tín dụng chưa thể phát huy hết và cần tiếp tục được nghiên cứu chỉnh sửa cho phù hợp hơn.
Phân loại nợ
Phân loại nợ là một công cụ hữu hiệu nhằm giúp các nhà quản lý ngân hàng đánh giá đúng chất lượng loại tài sản “có” quan trọng nhất, đó là nợ vay của khách hàng. Từ kết quả phân loại nợ, các nhà quản lý ngân hàng có thể đề ra các biện pháp thực hiện hữu hiệu nhằm cải thiện kết quả, từ đó duy trì tỷ lệ nợ xấu xuống mức chấp nhận được.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, dư nợ tín dụng tại các NHTM phải được phân thành 5 loại, từ loại 1 đến loại 5 theo mức độ rủi ro cao dần. Các khoản nợ được phân loại vào các nhóm 3, 4, 5 được coi là nợ xấu và yêu cầu các NHTM phải có biện pháp đặc biệt đối với các
khoản nợ thuộc nhóm này. Ngoài ra, Quyết định 493 của NHNN nêu trên còn khuyến khích các NHTM thực hiện phân loại nợ theo đúng chuẩn mực quốc tế. Theo đó, các khoản nợ được phân loại dựa trên Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mỗi ngân hàng và chủ yếu dựa vào khả năng thu nợ của mỗi khoản vay. Đây đồng thời cũng là cách phân loại nợ mà Hiệp ước Basel đã đưa ra.
Sau 2 năm thực hiện Quyết định 493, ngày 25/4/2007, NHNN đã ban hành Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều trong Quyết định 493. Theo Quyết định 18, các khoản bảo lãnh, chấp nhận thanh toán và cam kết cho vay không hủy ngang vô điều kiện và có thời điểm thực hiện cụ thể (gọi chung là các cam kết ngoại bảng) phải được TCTD đánh giá, phân loại theo 5 nhóm thay vì chỉ phân vào nhóm 1 như Quyết định 493. Điều này có nghĩa là các cam kết ngoại bảng có mức độ rủi ro tín dụng tương đương với các khoản nợ nội bảng được phân loại chặt chẽ hơn, phản ánh chính xác hơn rủi ro tín dụng của TCTD.
Quyết định 18 bổ sung thêm: Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày mà TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi bị quá hạn, gốc và lãi đúng thời hạn còn lại thì được phân loại vào nhóm 1. Việc bổ sung này giúp TCTD hạn chế việc phân loại các khoản nợ quá hạn vài ngày vì lý do khách quan không xuất phát từ khả năng không trả nợ đúng hạn của khách hàng.
Đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ (gồm nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và nợ gia hạn thời hạn trả nợ), Quyết định 18 bổ sung tiêu chí số lần cơ cấu lại để phân loại nợ, nhằm hạn chế việc TCTD thực hiện cơ cấu nợ tràn lan, không đánh giá đúng khả năng trả nợ của khách hàng và TCTD sẽ không thể sử dụng việc cơ cấu lại nợ để che dấu mức độ rủi ro thực tế của khoản nợ.
Nhìn chung, Quyết định 18 đã cụ thể và làm rõ hơn một số quy định của Quyết định 493 và giúp tăng độ an toàn cho hoạt động ngân hàng.
Trích lập dự phòng rủi ro
Trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) là một biện pháp hữu hiệu nhằm tạo thế chủ động cho các NHTM đối phó trong trường hợp rủi ro xảy ra. Theo Điều 6 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, tỷ lệ trích lập DPRR được quy định tăng dần so với chất lượng tương ứng của từng nhóm nợ, nghĩa là nhóm nợ càng cao thì tỷ lệ
các NHTM phải trích lập DPRR càng cao. Mức trích lập cụ thể theo từng nhóm nợ như sau:
Nhóm 1: 0%
Nhóm 2: 5%
Nhóm 3: 20%
Nhóm 4: 50%
Nhóm 5: 100%
So sánh với thông lệ quốc tế thì phương pháp trích lập như nêu trên tại Quyết định 493 đã tiến khá sát với thông lệ quốc tế, cụ thể:
(i) Có trích lập dự phòng chung và dự phòng riêng;
(ii) Có tính giá trị tài sản đảm bảo và loại trừ khi tính toán số tiền phải trích
lập;
(iii) Quyết định 493 còn cho phép các NHTM được trích lập dần trong 3
năm, phù hợp với tình hình tài chính và kết quả kinh doanh tại các NHTM.
Tuy nhiên, theo quy định trên thì việc trích lập dự phòng của các NHTM Việt Nam dựa trên tình trạng nợ quá hạn của các khoản nợ chứ không dựa trên cơ sở hạch toán kế toán nhằm đánh giá khả năng thu hồi nợ dự kiến. Thanh tra ngân hàng cũng chỉ kiểm tra việc tuân thủ của ngân hàng với quy định chứ chưa kiểm tra liệu mức dự phòng trích lập có phản ánh đúng khả năng thu hồi dự kiến hay không.
Thiết lập giới hạn tín dụng an toàn và giới hạn tín dụng tối đa với khách hàng và lĩnh vực kinh doanh chiến lược
Nhìn chung, quy định của NHNN Việt Nam về giới hạn tín dụng với một nhóm khách hàng có liên quan tương đối phù hợp với yêu cầu của Basel. Tuy nhiên, Thông tư 13/2010/TT-NHNN quy định giới hạn tín dụng của TCTD với một nhóm khách hàng có liên quan là 50%, trong khi tỷ lệ này theo Basel chỉ là 25%.
Nhận thức được rằng rủi ro theo mặt hàng và lĩnh vực đầu tư đang là một trong các loại rủi ro nguy hiểm dẫn đến danh mục đầu tư của các NHTM bị giảm
chất lượng một cách nhanh chóng, trong thời gian qua, các NHTM đã chú trọng hơn tới công tác quản lý danh mục đầu tư trên cơ sở đảm bảo ba nguyên tắc:
(i) Không đầu tư quá tập trung vào một mặt hàng hoặc một lĩnh vực đầu tư;
(ii) Ưu tiên tăng trưởng tỷ trọng đầu tư đối với các mặt hàng/lĩnh vực đầu tư kinh doanh thuận lợi, có tỷ lệ lợi nhuận cao;
(iii) Giảm tỷ trọng đầu tư đối với các mặt hàng/lĩnh vực đầu tư gặp khó khăn và có độ rủi ro cao.
Tại hầu hết các NHTM, phòng Quản lý tín dụng (hoặc phòng có chức năng tương đương) đều bước đầu tổ chức thu thập thông tin và phân tích đánh giá mức độ rủi ro đối với các mặt hàng và lĩnh vực đầu tư quan trọng (các mặt hàng và lĩnh vực đầu tư mà ngân hàng mình có tỷ trọng đầu tư lớn), từ đó xây dựng các chính sách đầu tư cũng như các chính sách hạn chế đầu tư phù hợp.
Tại một số NHTM, trong đó có Vietcombank, Vietinbank, ACB, công tác quản lý danh mục đầu tư đã hoàn thiện hơn thông qua việc thiết lập giới hạn tín dụng tối đa đối với các mặt hàng và lĩnh vực đầu tư quan trọng, góp phần ngăn chặn đáng kể rủi ro theo ngành hàng cũng như tận dụng các cơ hội kinh doanh thuận lợi từ thị trường.
c. Một số hạn chế trong công tác quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam
Theo quy định hiện hành thì phương pháp xác định rủi ro tín dụng của các NHTM Việt Nam hiện nay có sự khác biệt khá xa so với phương pháp xác định rủi ro tín dụng của Basel. Vì vậy, tác giả không thể thực hiện được việc so sánh về số tuyệt đối. Cụ thể, theo Hiệp ước Basel như đề cập tại chương I, rủi ro tín dụng được xác định chủ yếu dựa trên hệ thống phân loại nợ nội bộ (Internal Ratings Based – IRB) với hệ thống chỉ tiêu khá phức tạp nhằm đánh giá khả năng thu hồi nợ đối với từng khoản vay. Trong khi đó, việc phân loại nợ của các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn dựa trên các thông số có tính bề mặt như căn cứ chủ yếu vào số ngày gia hạn nợ và số ngày chuyển sang nợ quá hạn. Các yếu tố định tính khác phản ánh đúng chất lượng và khả năng thu nợ của khoản vay như tình hình tài chính của khách hàng, rủi
ro trong kinh doanh của khách hàng, rủi ro phi tài chính... đều chưa được đưa vào hệ thống cho điểm tín dụng của các NHTM Việt Nam.
Theo kết quả khảo sát tại 21 NHTM trong hệ thống ngân hàng Việt Nam về khả năng áp dụng Hiệp ước vốn Basel trong quản trị rủi ro, 61,90% ngân hàng lựa chọn phương pháp chuẩn hóa để tiếp cận rủi ro tín dụng trong khi chỉ có 4,76% lựa chọn phương pháp tiếp cận nâng cao dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, 33,33% lựa chọn phương pháp chuẩn hóa để tiếp cận. Thời gian các ngân hàng dự kiến triển khai phần lớn là từ năm 2015 – 2018 với 85,71% câu trả lời, 14,29% ngân hàng dự kiến áp dụng từ năm 2012 – 2015 (Xem thêm phụ lục số 06). Như vậy, có thể thấy, các NHTM Việt Nam vẫn chưa thực sự sẵn sàng cho việc áp dụng các phương pháp tiếp cận mới đối với rủi ro tín dụng theo Hiệp ước Basel và chắc chắn thời gian để các ngân hàng áp dụng thực tế sẽ còn rất dài so với kế hoạch dự kiến như trong kết quả nêu trên.
(ii). Rủi ro thị trường
Khi đánh giá rủi ro thị trường tiềm ẩn có thể gây ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của mình, một ngân hàng phải tính đến:
Sự giảm giá thị trường của các khoản đầu tư;
Sự dao động trong lãi suất và tác động lên giá trị thị trường của các khoản đầu tư;
Lãi từ đầu tư thấp hơn số lãi dự kiến thu được và xác suất khách hàng không trả nợ.
Đối với Việt Nam, bên cạnh các quy định về giao dịch hối đoái, Việt Nam hiện chưa ban hành các quy định về rủi ro thị trường như chứng khoán, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn và sản phẩm phái sinh. Đáng lưu ý là Việt Nam chưa áp dụng nguyên tắc của Hiệp ước Basel về điều chỉnh tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với rủi ro thị trường do rủi ro thị trường ở Việt Nam hiện nay chưa đóng vai trò trọng yếu trong rủi ro hoạt động ngân hàng của các TCTD. Bên cạnh đó, kinh nghiệm và kỹ năng của thanh tra ngân hàng về rủi ro thị trường và các sản phẩm phái sinh cũng còn hạn chế.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thực hiện kiểm tra việc thiết lập các giới hạn cụ thể về rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro cho hoạt động kinh doanh ngoại hối và việc xây dựng hệ thống thông tin và kiểm soát nội bộ để đảm bảo việc tuân thủ các giới hạn rủi ro thị trường của các TCTD. Tuy nhiên, mức độ kiểm tra khác nhau phụ thuộc vào từng loại hình TCTD và phụ thuộc vào kỹ năng và kiến thức của các cán bộ thanh tra.
Cho đến nay, các NHTM Việt Nam hầu như vẫn chưa áp dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro thị trường một cách đầy đủ. Các sản phẩm hedging hầu như chưa được các NHTM Việt Nam triển khai, ngoại trừ một số biện pháp như quản lý trạng thái ngoại hối, quản lý danh mục đầu tư thông qua việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, tránh đầu tư tập trung…
Theo kết quả khảo sát thực tế tại 21 NHTM Việt Nam, 100% các ngân hàng dự kiến sẽ áp dụng phương pháp chuẩn hóa theo Basel đối với rủi ro thị trường song thời gian triển khai cũng còn khá xa. Phương pháp mô hình nội bộ không được các ngân hàng xem xét lựa chọn trong bước đầu triển khai bởi để sử dụng phương pháp này, các ngân hàng cần được sự chấp thuận từ phía cơ quan giám sát ngân hàng đồng thời đòi hỏi các ngân hàng phải có hệ thống quản trị rủi ro tương thích hiện đại và đủ dữ liệu (Xem thêm trong phụ lục số 06).
(iii). Rủi ro tác nghiệp
a. Tình hình rủi ro tác nghiệp tại các NHTM Việt Nam
Có thể nói chưa có một thống kê hay đánh giá nào về hiện trạng rủi ro tác nghiệp của hệ thống NHTM Việt Nam. Hơn thế, chưa có một NHTM nào tại Việt Nam hiện nay có một loại báo cáo hay phân tích nào về rủi ro tác nghiệp của bản thân ngân hàng mình. Lý do là khái niệm rủi ro tác nghiệp còn tương đối mới trong công tác quản trị điều hành hoạt động ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Hơn thế nữa, do tín dụng là hoạt động chủ yếu (như trên trình bày, chiếm tới 70% hoạt động và khoảng 80% đến 90% doanh thu), các NHTM Việt Nam mới chỉ quan tâm đến quản trị rủi ro tín dụng là chủ yếu. Các NHTM Việt Nam vẫn chưa nhận thức đúng và đủ các loại hình rủi ro tác nghiệp, vì vậy, chưa một ngân hàng nào có nguồn dự phòng thích đáng và phù hợp đối với loại hình rủi ro này.