Mục Tiêu, Nguyên Tắc Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Khách Hàng Cá Nhân


toàn, hiệu quả và phát triển bền vững, tuy nhiên đó cũng là công việc rất khó khăn và phức tạp. (Phan Thu Hà, Đàm Văn Huệ, 2010)

Từ những khái niệm trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, có thể hiểu: Quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân là quá trình nhận dạng, đo lường, kiểm soát và xử lý rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân nhằm tối đa hoá lợi nhuận của ngân hàng với mức rủi ro có thể chấp nhận được.

1.2.2. Mục tiêu, nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân

i. Mục tiêu

Xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt động tín dụng, mục tiêu quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại là tối đa hóa thu nhập bằng cách duy trì rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN ở mức chấp nhận được. Quản trị rủi to tín dụng trong cho vay KHCN có hiệu quả là một bộ phận quan trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai trò cốt lõi cho sự thành công của ngân hàng thương mại trong dài hạn.

ii. Nguyên tắc

Theo Basel (2000), các nguyên tắc về quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Trong đó, các nguyên tắc tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây:

- Thực hiện cấp tín dụng trong cho vay KHCN lành mạnh: Các ngân hàng cần xác định rõ ràng các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh (thị trường mục tiêu, đối tượng khách hàng, điều khoản, điều kiện cấp tín dụng...). Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng và nhóm khách hàng vay vốn có liên quan để có thể bao quát được các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có thể so sánh và theo dõi được trên cơ sở xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ngân hàng cần có quy trình rõ ràng trong phê duyệt tín dụng với sự tham gia của các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia, đồng thời cần phát triển đội ngũ nhân viên quản trị rủi ro tín dụng có kinh


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

nghiệm, có kiến thức, nhằm đưa ra các nhận định thận trọng trong việc đánh giá, phê duyệt và quản trị rủi ro tín dụng.

- Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp: Ủy ban Basel yêu cầu Hội đồng quản trị phải thực hiện phê duyệt và định kỳ (ít nhất 1 năm/lần) rà soát lại các chiến lược rủi ro tín dụng, các chính sách rủi ro tín dụng. Chiến lược này cần bao hàm mức độ chấp nhận rủi ro, khả năng ứng phó dự kiến nếu có xảy ra các loại hình rủi ro tín dụng. Trên cơ sở này, Ban Tổng giám đốc có trách nhiệm trong khi thực hiện chiến lược quản trị rủi ro tín dụng và xây dựng các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng trong mọi hoạt động, ở cấp độ từng khoản tín dụng và cả danh mục đầu tư. Các ngân hàng cần xác định và quản trị rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm và hoạt động của mình.

Quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh – Chi nhánh Bắc Ninh - 4

- Duy trì một quy trình quản lý, đo lường và giám sát có hiệu quả: Ngân hàng cần có hệ thống quản trị các danh mục tín dụng hiệu quả, có hệ thống giám sát đối với các điều kiện liên quan đến từng khoản tín dụng, bao hàm việc xác định quy mô thích hợp các khoản dự phòng, xây dựng và sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro nội bộ trong quản trị rủi ro tín dụng. Hệ thống xếp hạng cần phù hợp với tính chât, quy mô và tính phức tạp trong hoạt động ngân hàng. Ngân hàng cần có hệ thống thông tin và kỹ thuật phân tích giúp ban điều hành đánh giá rủi ro tín dụng cho các hoạt động trong và ngoài bảng cân đối kế toán; có hệ thống giám sát cơ cấu và chất lượng tổng thể của danh mục tín dụng.

- Đảm bảo kiểm soát đầy đủ đối với rủi ro tín dụng: Ngân hàng cần thiết lập hệ thống đánh giá độc lập và liên tục đối với các quy trình quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng và các kết quả đánh giá này cần thông báo cho Hội đồng quản trị và ban quản lý cấp cao. Quy trình cấp tín dụng cần phải được quản lý chặt chẽ, mức cho vay phải nằm trong các chuẩn mực an toàn và giới hạn cho phép. Kiểm soát nội bộ cần báo cáo kịp thời đến các cấp quản lý về những trường hợp ngoại trừ trong các chính sách, quy trình và hạn mức. Ngân hàng cần có hệ thống cảnh báo sớm đối với các khoản tín dụng có dấu hiệu xấu đi, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề và các tình huống tương tự


1.2.3. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân

1.2.3.1. Nhận diện rủi ro tín dụng

Nhận diện rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân là quá trình xác định liên tục và có hệ thống. Trong đó, nhận diện RRTD trong cho vay khách hàng cá nhân là việc làm đầu tiên trong công tác quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân. Sự phát triển của công nghệ, thông tin, thị trường và xu hướng toàn cầu hóa làm cho rủi ro ngày càng đa dạng hơn. Việc phát hiện và nhận biết rủi ro là khâu đầu tiên trong quá trình quản trị rủi ro nhưng có vai trò rất quan trọng để định hướng hoạt động quản trị thực hiện đúng mục đích và đảm bảo hiệu quả. Bất kỳ khoản vay nào cũng có thể có vấn đề, việc sớm nhận biết vấn đề và có những biện pháp theo dõi nhanh chóng, chuyên nghiệp giúp các vấn đề, tổn thất có thể giảm đến mức thấp nhất.

Những dấu hiệu cảnh báo sẽ giúp ngân hàng có thể nhận biết và có giải pháp xử lý sớm các vấn đề một cách hiệu quả. Do đó, khi hệ thống nhận biết tốt các rủi ro hiện hữu và tiềm tàng trong các sản phẩm tín dụng là đã tạo lập cơ sở ban đầu để theo dõi và quản lý chúng. Trong phạm vi khả năng cho phép, ngân hàng không thể nhận diện được tất cả các rủi ro. Tuy nhiên, ngân hàng cần phải nhận diện được những loại rủi ro tín dụng mang tính ảnh hưởng trọng yếu tới hoạt động cho vay KHCN:

- Nhóm các dấu hiệu từ phía khách hàng:

Nhóm các dấu hiệu này còn được gọi với một tên khác là nhóm các dấu hiệu cảnh báo sớm, bao gồm các dấu hiệu cơ bản sau:

+ Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục.

+ Đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn trả nợ.

- Nhóm dấu hiệu từ phía ngân hàng:


+Sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng.

+Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính bảo đảm của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi lớn hay các lợi ích do khách hàng đem lại từ khoản tín dụng được cấp;

+Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ, không rõ ràng; không xác định rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay; cố ý thỏa hiệp các nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có tiềm ẩn rủi ro;

+Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc lỏng để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng;

+Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng;

+ Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của ngân hàng.

1.2.3.2. Đo lường rủi ro tín dụng

Sau khi RRTD được nhận biết, khâu tiếp theo trong quy trình quản trị RRTD là tiến hành đo lường (lượng hóa) RRTD. Đo lường rủi ro là giai đoạn quan trọng, cần có sự kết hợp tổng hòa của rất nhiều yếu tố như quy trình nghiệp vụ, con người và công nghệ,… để tạo thành hệ thống đo lường rủi ro.

Đo lường RRTD giúp góp phần tính toán vốn kinh tế cho ngân hàng. Vốn kinh tế được xác định bằng phần tổn thất ngoài dự tính (Unexpected Loss – UL), theo đó UL sẽ được bù đắp bằng vốn tự có của ngân hàng. Xác định được rủi ro chính xác sẽ giúp hình thành một tấm đệm vốn tự có đủ lớn nhằm đối phó với các tổn thất không thể dự tính có khả năng xảy ra.

Khi mức độ rủi ro đã được lượng hóa, ngân hàng có cơ sở để xác định lãi suất cho vay phù hợp với quan hệ rủi ro/ lợi nhuận thông qua cơ chế tính giá bù đắp rủi ro. Ngoài ra, ngân hàng có thể căn cứ thêm vào khẩu vị RRTD để sàng lọc và lựa chọn khách hàng nhằm nâng cao hiệu quả của danh mục tín dụng.

Đo lường RRTD còn góp phần quản lý danh mục tín dụng theo phương pháp chủ động, nhằm tái cấu trúc danh mục tín dụng theo hướng giảm rủi ro tập trung và phù hợp với khẩu vị RRTD của ngân hàng, giúp ngân hàng tính toán và trích lập


mức dự phòng RRTD phù hợp nhất với mức độ rủi ro của khoản vay, từ đó xác định mức dự phòng cho toàn bộ danh mục tín dụng, tập trung giám sát, xử lý tín dụng có rủi ro cao và tái xếp hạng khách hàng sau khi cho vay.

Đo lường rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN là việc xây dựng mô hình thích hợp để lượng hoá mức độ các rủi ro cũng như biết được xác suất xảy ra rủi ro, mức độ tổn thất khi rủi ro xảy ra để xem xét khả năng chấp nhận nó của ngân hàng. Để lượng hóa và đánh giá được RRTD trong cho vay KHCN, từ đó có các biện pháp quản lý hiệu quả, ngân hàng có thể sử dụng nhiều mô hình khác nhau để đánh giá RRTD trong cho vay KHCN. Cụ thể:

- Đo lường rủi ro tín dụng bằng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ:

Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là tổ hợp các quy trình phân loại khách hàng theo ngành nghề, quy mô, tính chất sở hữu, bộ chỉ tiêu tài chính và bộ chỉ tiêu phi tài chính để chấm điểm khách hàng. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là một công cụ quan trọng trong việc quản lý và giám sát chất lượng đối với từng khách hàng cũng như toàn bộ danh mục tín dụng. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tốt cho thấy sự khác biệt về mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng của ngân hàng. Nó cũng cho phép xác định chính xác hơn về đặc điểm của danh mục tín dụng, mức độ các khoản tín dụng có vấn đề và đầy đủ các dự phòng tổn thất tín dụng.

- Đo lường rủi ro tín dụng bằng mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng.

Để đáp ứng nhanh chóng nhu cầu vay tiêu dùng ngày một gia tăng của khách hàng cá nhân mà các ngân hàng áp dụng phương pháp cho điểm này để xử lý đơn xin vay của người tiêu dùng như: Mua xe, trang thiết bị gia đình, bất động sản,… Các yếu tố quan trọng trong mô hình cho điểm tín dụng bao gồm: Hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập.

1.2.3.3. Kiểm soát rủi ro tín dụng

Kiểm soát rủi ro tín dụng là một nội dung của quản trị rủi ro tín dụng, được thực hiện song song với hoạt động quản trị rủi ro nhằm mục tiêu: (i) phòng, chống và kiểm soát các rủi ro có thể phát sinh trong hoạt động ngân hàng, (ii) đảm bảo toàn bộ các hoạt động, các bộ phận và từng cá nhân trong ngân hàng đều tuân thủ các quy định của pháp luật, tuân thủ và thực hiện các chiến lược, chính sách, quy


trình và quyết định của các cấp thẩm quyền, đảm bảo mục tiêu an toàn và hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng.

Kiểm soát RRTD trong cho vay KHCN giúp đảm bảo an toàn cho khoản tín dụng đã cấp của ngân hàng, đồng thời theo dõi được mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng. Kiểm soát RRTD bao gồm 3 hoạt động:

- Kiểm soát trước khi cho vay: nhằm kiểm soát quá trình lập hồ sơ vay vốn, thực hiện đối chiếu với quy định để kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp của hồ sơ vay vốn, kiểm tra tính chính xác của các số liệu tính toán và thẩm định trên hồ sơ tín dụng; kiểm tra, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của phương án/dự án vay vốn; kiểm tra khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng.

- Kiểm soát trong khi cho vay: kiểm soát và ký hợp đồng tín dụng; kiểm tra quá trình giải ngân theo đúng quy định, bao gồm đối chiếu xác nhận của khách hàng với số liệu tại ngân hàng để từ đó phát hiện các trường hợp vay hộ, lập hồ sơ giải ngân vay vốn; kiểm tra tài sản đảm bảo tiền vay.

- Kiểm soát sau khi cho vay: kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không; kiểm tra tiến trình thực hiện phương án/dự án kinh doanh của khách hàng; Kiểm tra và theo dõi thường xuyên về tình hình tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng để kịp thời đôn đốc thu hồi nợ.

Một số biện pháp kiểm soát RRTD trong cho vay KHCN như sau:

- Trích lập dự phòng RRTD trong cho vay KHCN:

Ngay khi có dấu hiệu xảy ra tổn thất, ngân hàng trích lập dự phòng theo mức độ nghiêm trọng của khả năng xảy ra rủi ro để có nguồn bù đắp tổn thất trong tương lai mà không làm ảnh hưởng đến vốn của ngân hàng. Căn cứ vào kết quả của hoạt động đo lường rủi ro, ngân hàng chia danh mục tín dụng ra thành các nhóm và trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động cho vay theo tỷ lệ phù hợp với từng nhóm.

Theo Thông tư số 02/2013/TT – NHNN ban hành ngày 21/01/2013 về phân loại, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các khoản nợ (được hoãn qua ngày 01/06/2014), bao gồm tài sản có phân loại nợ, các khoản nợ của ngân hàng được chia thành 5 nhóm như sau: Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn); Nhóm 2


(Nợ cần chú ý); Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn); Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ); Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) Sau khi tiến hành phân loại nợ, ngân hàng cần trích lập dự phòng cụ thể với tỷ lệ như sau: Nhóm 1: 0%; Nhóm 2: 5%; Nhóm 3: 20%; Nhóm 4: 50%; Nhóm 5: 100%. Mức trích lập dự phòng cụ thể:

𝑛

𝑅 = ∑ 𝑅𝑖

𝑖=1

Trong đó:

R: Tổng số tiền dự phòng cụ thể phải trích của từng khách hàng.

Ri: Số tiền dự phòng cụ thể phải trích của từng khách hàng đối với số dư nợ gốc của khoản nợ thứ i, với công thức: Ri = (Ai − Ci) × r

Với: Ai: Số dư nợ gốc thứ i.

Ci: giá trị khấu trừ của tài sản đảm bảo, tài sản cho thuê tài chính (sau đây gọi chung là tài sản bảo đảm) của khoản nợ thứ i.

r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể theo nhóm được quy định. Trường hợp Ai < Ci: Ri = 0.

Ngoài ra, ngân hàng còn phải trích lập dự phòng chung với dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 với tỷ lệ 0,75%.

- Mua bảo hiểm tín dụng

Trong nhiều trường hợp khách hàng vay vốn, đặc biệt là khách hàng cá nhân, không có tài sản thế chấp hoặc cầm cố nhưng họ vẫn có nhu cầu vay vốn. Phần lớn các khoản vay tiêu dùng và cho vay bất động sản chỉ dựa vào thu nhập của khách hàng để xem xét cho vay. Thế nhưng, thu nhập thì hoàn toàn lệ thuộc vào tình hình việc làm của khách hàng. Những khách hàng nào có việc làm không ổn định thường xuyên hoặc công việc quá phụ thuộc vào tình trạng của nền kinh tế thì không thể đảm bảo có thu nhập để trả nợ vay mua bất động sản trong một thời gian dài đến 15 hoặc 20 năm. Trong những trường hợp như vậy, ngân hàng thường cho khách hàng vay với điều kiện là khách hàng mua bảo hiểm tín dụng. Khi khách hàng rơi vào tình trạng thất nghiệp không có đủ thu nhập trả nợ vay cho ngân hàng thì công ty bảo hiểm sẽ chi trả.


- Bảo đảm tín dụng

Bảo đảm tín dụng (bảo đảm tiền vay) là việc TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Các hình thức bảo đảm tín dụng bao gồm: thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay và bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh. Bảo đảm tín dụng thường được xem là biện pháp quan trọng nhằm giúp ngân hàng thu hồi khoản vay có vấn đề. Tuy nhiên, nếu quyết định cho vay quá chú trọng đến việc dựa vào bảo đảm tín dụng thì dễ dẫn đến tâm lý ỷ lại và mắc sai lầm chủ quan.

1.2.3.4. Xử lý rủi ro tín dụng

Xử lý rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN là các biện pháp mà ngân hàng sử dụng để xử lý rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN khi rủi ro đã xảy ra.

Một số biện pháp xử lý rủi ro tín dụng trong cho vay KHCN như sau:

- Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng

Về nguyên tắc, biện pháp này chỉ được áp dụng đối với các khoản nợ xấu: sau khi ngân hàng đã áp dụng hết các biện pháp khắc phục và xử lý mà vẫn không thu hồi được nợ hoặc các khoản nợ đã phát mại hết tài sản nhưng vẫn còn chênh lệch âm (cả gốc và lãi) hoặc các khoản vay bị rủi ro do nguyên nhân khách quan mà không thể khắc phục được. Sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp cho những khoản rủi ro tín dụng ra làm lành mạnh hoá tài chính của ngân hàng chứ không có nghĩa là xoá hoàn toàn nợ vay cho khách hàng. Đối với các khoản nợ được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro: Những khoản vay có rủi ro sau khi được bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro sẽ được chuyển ra ngoại bảng để theo dõi tận thu, ngân hàng vẫn phải dùng các biện pháp khắc phục và xử lý để thu hồi nợ.

- Xử lý tài sản đảm bảo

Đối với khách hàng khó khăn về tài chính, kinh doanh thua lỗ khó khắc phục, nợ đã được gia hạn nhưng chưa trả được hoặc chưa xác định được nguồn trả, ngân hàng (đa phần là Nợ nhóm 5) cần quản lý chặt chẽ khoản vay của khách hàng, đồng thời rà soát hồ sơ pháp lý và tình trạng tài sản đảm bảo để xem xét khả năng phát mại nhằm thu hồi vốn. Sau đó phối hợp với các cơ quan chức trách của nhà nước để

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 14/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí