Hạn Chế Trong Hoạt Động Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Đối Với Khcn Tại Vietcombank Bắc Ninh


- Vietcombank Bắc Ninh đã kiểm soát RRTD khá tốt nhờ hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động khá hiệu quả.

Vietcombank Bắc Ninh đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật trong lĩnh vực tài chính vi mô và hoạt động cho vay: Thực hiện tốt các giới hạn đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay theo Thông tư số 33/2015/ TT-NHNN, thực hiện tốt chính sách, quy trình tín dụng. Hệ thống kiểm soát nội bộ của chi nhánh vận hành khá hiệu quả nhờ đảm bảo được sự giám sát chặt chẽ đối với mọi hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, Vietcombank Bắc Ninh xây dựng bộ quy tắc ứng xử hình thành văn hóa tổ chức, trong đó có liên quan đến nhận diện, ứng xử với rủi ro.

- Về công tác nhận diện rủi ro

Công tác nhận diện thông qua thẩm định tình hình thực tế được thực hiện khá tốt, đối với khách hàng vay vốn sản xuất kinh doanh, quản lí khách hàng sau khi tiếp nhận đề nghị của khách hàng, thẩm định nhu cầu vay của khách hàng sẽ tiến hành thẩm định thức tế, công tác thẩm định thực tế thông thường sẽ do quản lí khách hàng và kiểm soát hoặc lãnh đạo phòng tiến hành nên công tác thẩm định sẽ không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của cá nhân cán bộ mà có thêm sự đánh giá của người có kinh nghiệm dày dặn hơn.

Nhận diện thông qua phân tích tài sản bảo đảm: Phòng thẩm định thuộc Vietcombank Bác Ninh đã tuân thủ các quy định về đánh giá tài sản bảo đảm, định giá tài sản đúng theo quyết định đơn giá của tỉnh và giá cả thị trường tùy vào phương pháp định giá. Đối với tải sản bảo đảm là động sản thì Vietcombank Bắc Ninh yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm và chuyển quyền thụ hưởng bảo hiểm cho Vietcombank Bắc Ninh trong suốt thời gian vay.

- Về công tác thẩm định tín dụng được thực hiện đầy đủ, đánh giá đầy đủ những thông tin về khách hàng. Thông tin đánh giá về tư cách, khả năng, tài sản thế chấp; thông tin tín dụng đặc biệt là tình hình dư nợ tại các ngân hàng được phản ánh chính xác. Đã có những đánh giá về năng lực khách hàng về các mặt như: năng lực tài chính, trình độ học vấn, quan hệ gia đình và xã hội…


Việc nhận diện và đánh giá RRTD của Vietcombank Bắc Ninh khá chính xác và kịp thời. Vietcombank Bắc Ninh thường ưu tiên tuyển dụng cán bộ tín dụng, cộng tác viên là người địa phương hoặc người am hiểu địa bàn giúp việc đánh giá, lựa chọn khách hàng chính xác và hiệu quả.

Ngoài ra, Vietcombank Bắc Ninh đã ban hành quy trình hướng dẫn cán bộ tín dụng, cộng tác viên trong quá trình thu thập thông tin, thẩm định, đánh giá khách hàng. Những yếu tố này tạo nên sự thống nhất chặt chẽ và chuyên nghiệp trong quá trình sàng lọc khách hàng nhằm hạn chế nguy cơ RRTD.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.

- Về công tác đo lường rủi ro

Công tác phân loại nợ tại chi nhánh được thực hiện hàng tháng, tuân thủ đúng quy định của Vietcombank và Ngân hàng nhà nước. Công tác phân loại nợ được theo dõi và kiểm soát chặt chẽ bởi Khối QTRR tại Hội sở chính.

Quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Bắc Ninh - 14

- Về công tác kiểm soát rủi ro

Công tác kiểm soát rủi ro của Chi nhánh khá tốt thể hiện ở sự tuân thủ đúng quy trình, quy định của quản lí khách hàng; phân cấp thẩm quyền phán quyết tín dụng hợp lý; công tác định giá tài sản bảo đảm tốt, thiết kế mức lãi suất tín dụng phù hợp với mức độ rủi ro.

Công tác giám sát rủi ro được tiến hành khá tốt, cán bộ thẩm định đã thường xuyên kiểm tra tình hình khách hàng; giám sát các tài sản đảm bảo; giám sát dư nợ đảm bảo thu nợ đúng hạn.

Chất lượng nợ, cơ cấu tín dụng chuyển biến theo chiều hướng tích cực: Vietcocmbank Bắc Ninh đã triển khai mô hình quản lý nợ xấu, bao gồm các bộ phận chuyên trách quản lý nợ có vấn đề. Điều này được thể hiện qua tỷ lệ nợ xấu KHCN của Chi nhánh luôn được duy trì dưới 1% dư nợ KHCN (cuối năm 2020 chỉ là 0,04%). Nợ nhóm 2, nợ xấu được kiểm soát tốt, điều này cho thấy các biện pháp quản trị RRTD của các NHTM đã có kết quả tích cực so với giai đoạn trước khi thực hiện tái cơ cấu các tổ chức tín dụng theo đề án phê duyệt của Chính phủ, NHNN. Vietcombank Bắc Ninh đã triển khai các giải pháp như: nâng dần tỷ lệ cho


vay có bảo đảm; kiểm soát chặt chẽ dư nợ cho vay một số ngành, lĩnh vực nhạy cảm có độ rủi ro cao là bất động sản và chứng khoán...

Vietcombank Bắc Ninh cũng đã tích cực trong việc xử lí nợ quá hạn. Cụ thể, năm 2018 Tỉ lệ nợ quá hạn cho vay KHCN/ Dư nợ KHCN tăng 30,49% so với năm 2017, năm 2019 giảm 60,01% so với năm 2018. Năm 2020, Tỉ lệ nợ quá hạn cho vay KHCN/ Dư nợ KHCN giảm 13,75%. Mặc dù nợ quá hạn năm 2020 tăng, nhưng tốc độ tăng của dư nợ KHCN tăng nhanh hơn. Do đó, có thể nói, công tác quản lý nợ quá hạn của Chi nhánh đã được chú ý và cẩn trọng hơn. Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay KHCN/ tổng dư nợ năm 2018 tăng 25,09% so với năm 2017, năm 2019 giảm 45, 85% so với năm 2018. Năm 2020, tỷ lệ nợ quá hạn cho vay KHCN/ tổng dư nợ tăng 0,12% so với năm 2019. Mặc dù tăng nhưng tăng một lượng rất nhỏ so với năm 2019.

- Về công tác xử lý rủi ro

Tỷ lệ dự phòng của chi nhánh luôn duy trì ở mức bù đắp được tổn thất tín dụng. Quỹ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân của Chi nhánh tăng đều hàng năm. Trong đó, khoản mục dự phòng chung chiếm tỷ trọng lớn và tăng qua các năm tương ứng với tốc độ tăng trưởng cho vay. Dự phòng cụ thể tăng cũng phù hợp với hoàn cảnh, tình hình kinh tế. Việc xử lý rủi ro được thực hiện phù hợp với văn hóa tổ chức của chi nhánh, đảm bảo đầy đủ hồ sơ pháp lý, đúng thủ tục, trình tự khách quan và công bằng giữa các khách hàng nhằm tránh tổn thất cho cả hai bên.

Chi nhánh đã thành lập Tổ xử lý nợ thuộc phòng Khách hàng bán lẻ để cập nhật báo cáo đánh giá rủi ro hàng ngày/tuần nhằm xác định các loại rủi ro và đặc tính của từng loại rủi ro mà Chi nhánh đang phải đối mặt… từ đó có thể lượng hóa mức độ ảnh hưởng của rủi ro đến luồng vốn của chi nhánh. Công tác đôn đốc thu hồi nợ của cán bộ quản lí khách hàng do thực hiện cơ chế trả lương theo kết quả kinh doanh nên cái bộ quản lí khách hàng cũng rất chú trọng đến tỷ lệ nợ cần chú ý và nợ xấu trong tổng dư nợ hàng tháng của mình.

2.4.2 Một số hạn chế và nguyên nhân


2.4.2.1 Hạn chế trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng đối với KHCN tại Vietcombank Bắc Ninh

Bên cạnh những kết quả đạt được, quản trị rủi ro tín dụng đối với Khách hàng cá nhân tại chi nhánh vẫn chưa toàn diện và chặt chẽ. Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Vietcombank Bắc Ninh còn tồn tại những hạn chế sau:

- Dư nợ cho vay KHCN đang tập trung nhiều vào một số sản phẩm: hiện dư nợ cho vay KHCN của Chi nhánh đang tập trung vào 02 sản phẩm chính là cho vay bất động sản (chiếm tỷ trọng 46% dư nợ cho vay KHCN) và cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh (chiếm tỷ trọng 42% dư nợ cho vay KHCN). Điều này có rủi ro khi thị trường bất động sản rơi vào khủng khoảng. Các sản phẩm khác như cho vay tiêu dùng, cho vay ô tô, thẻ tín dụng hiện tại ở Chi nhánh còn ở mức thấp.

- Công tác thẩm định khách hàng vẫn còn những khe hở do không tuân thủ nghiêm quy trình cho vay: Vẫn còn tồn tại việc đánh giá sai trong khi xem xét các yếu tố pháp lý hoặc không phát hiện được các sai sót trong hồ sơ chứng từ cho vay để phát sinh rủi ro tín dụng cá nhân, cũng có thể do cán bộ tín dụng rủi ro tác nghiệp hoặc có những vấn đề về đạo đức nghề nghiệp, cho vay vì mưu lợi cá nhân. Trong khấu kiểm tra đánh giá người vay, tính khả thi của phương án xin vay… do cán bộ tín dụng có thái độ chủ quan, quá tin tưởng vào khách hàng quen của mình mà đã xem nhẹ khâu này đã dẫn đến cho vay vượt quá khả năng chi trả của khách hàng. Nợ xấu đối với khách hàng có số dư dưới 500 triệu có xu hướng giống với nợ xấu KHCN, đó là tăng lên từ năm 2017-2019 và giảm và năm 2020. Cụ thể là năm 2018, nợ xấu đối với KH có số dư dưới 500 triệu là 0,8 tỷ đồng tăng 0,6 tỷ đồng so với năm 2017, 2019 cũng tăng 0,6 tỷ so với năm 2018. Nợ xấu KH có số dư trên 1 tỷ đồng có xu hướng tăng qua các năm, nếu như năm 2017 và 2018 không xuất hiện nợ xấu thì tới năm 2020 nợ xấu KH có số dư trên 1 tỷ đồng lại chiếm tỷ trọng cao nhất so với nợ xấu KHCN, cụ thể chiếm 33% so với nợ xấu KHCN

- Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Bắc Ninh có nợ xấu trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng nợ xấu của Khách hàng cá nhân, cụ thể chiếm tỷ trọng 62% trong năm 2017 và nâng lên tỷ trọng 79%. Nợ


xấu KH có số dư từ 500 triệu -1 tỷ đồng năm 2018 tăng mạnh so với năm 2017, tăng tới 1,76 tỷ đồng Điều này cho thấy nợ xấu chưa được quản lý chặt chẽ, cán bộ tín dụng cá nhân chỉ tập trung tìm kiếm khách hàng mới để đạt chỉ tiêu Chi nhánh đề ra mà chưa sát sao trong việc đốc thúc khách hàng trả nợ.

- Tỷ lệ nợ xấu đựợc duy trì ở tỷ lệ thấp nhưng cơ cấu chưa hợp lí. Nợ xấu trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng nợ xấu của Khách hàng cá nhân, cụ thể chiếm tỷ trọng 62% trong năm 2017 và nâng lên tỷ trọng 79% trong năm 2020. Nếu phân loại theo số dư, nợ xấu đối với khách hàng có số dư dưới 500 triệu có xu hướng giống với nợ xấu KHCN, đó là tăng lên từ năm 2017-2019 và giảm vào năm 2020. Nợ xấu KH có số dư trên 1 tỷ đồng có xu hướng tăng qua các năm, nếu như năm 2017 và 2018 không xuất hiện nợ xấu thì tới năm 2020 nợ xấu KH có số dư trên 1 tỷ đồng lại chiếm tỷ trọng cao nhất so với nợ xấu KHCN, cụ thể chiếm 33% so với nợ xấu KHCN

2.4.2.2 Nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động cho vay KHCN tại Vietcombank Bắc Ninh

a. Nguyên nhân bên ngoài.

Xuất phát từ phía khách hàng

Tình hình tài chính của nhiều khách hàng vay không minh bạch gây khó khăn trong việc thẩm định, đánh giá. Các thông tin tài chính của khách hàng cung cấp không trung thực nên khi xét duyệt cho vay việc phân tích đánh giá tình hình tài chính của khách hàng không đúng thực chất, không được đánh giá chính xác. Đây là một dấu hiệu tiềm ẩn nhiều RRTD KHCN cho Ngân hàng.

Một số khách hàng đã lợi dụng những điểm yếu của Ngân hàng đã tìm cách lừa đảo để được vay vốn. Họ đi vay ở nhiều ngân hàng với cùng một bộ hồ sơ. Họ sử dụng vốn sai mục đích so với hợp đồng tín dụng khiến cho nguồn trả nợ trở nên bấp bênh. Việc thanh toán nợ gốc và lãi vay đúng hạn khó thực hiện được, RRTD xuất hiện.


Xuất phát từ môi trường bên ngoài

Do môi trường pháp lý như những quy định còn nhiều vướng mắc, chẳng hạn việc đảm bảo tài sản thế chấp bằng giá trị quyền sử dụng đất chỉ có khách hàng có “sổ đỏ” mới được mang thế chấp, trong khi đó các quy định về chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn quá nhiều phức tạp. Một nguyên nhân nữa, là do sự biến động của nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây, đặc biệt là xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, sự cạnh tranh diễn ra trên mọi mặt của nền kinh tế trong đó có ngành ngân hàng. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng trong nước mà đã vượt khỏi phạm vi lãnh thổ quốc gia và ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Để tồn tại, đôi khi ngân hàng phải chấp nhận những rủi ro trong đó có rủi ro tín dụng cá nhân.

Năm 2020, nền kinh tế thị trường bất ổn, tín dụng cá nhân cũng bị ảnh hưởng. Khối lượng công việc tăng mạnh, phát sinh thêm nhiều yêu cầu mới về quản lý hồ sơ sau cho vay (như đăng ký giao dịch bảo đảm, quy chế chuyển nợ quá hạn mới…) đồng thời chuyển đổi ngân hàng lõi trên toàn hệ thống nên việc khai thác báo cáo phục vụ công tác kiểm tra, rà soát còn hạn chế. Dư nợ tín dụng cá nhân tăng trưởng, kéo theo sự tăng lên của các khoản nợ quá hạn.

Hệ thống thông tin nội bộ khách hàng hiện nay chưa được cập nhật đầy đủ, đáp ứng kịp thời. Các thông tin lấy từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN cũng thường xuyên không được cập nhật đầy đủ, thiếu thông tin khách hàng trong thẩm định cho vay. Với nguồn thông tin tự thu thập như trên thì mức độ tin cậy không cao, điều này ảnh hướng đến tính chính xác trong phân tích tín dụng.

b. Nguyên nhân bên trong

Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng cá nhân tại Vietcombank Bắc Ninh vẫn còn những thiếu sót như phân tích ở phần trên. Ban lãnh đạo Vietcombank Bắc Ninh đã tích cực tìm kiếm nguyên nhân và đưa ra các biện pháp khắc phục.

- Mặc dù nguồn nhân lực của chi nhánh trẻ, nhiệt huyết, năng động, nhưng cán bộ tín dụng khách hàng cá nhân lại có ít thâm niên kinh nghiệm, kiến thức xã hội chưa nhiều, còn hạn chế trong việc tư vấn, xử lý tình huống với nhiều đối tượng


khác nhau. Yêu cầu về thâm niên cán bộ thẩm định khách hàng cá nhân chỉ 1 năm, do vậy, không đảm bảo cán bộ có đủ kinh nghiệm trong thẩm định lượng lớn hồ sơ tín dụng. 20% cán bộ mới được tuyển dụng trong năm và một số cán bộ được tiếp nhận điều chuyển từ bộ phận nghiệp vụ khác, nên bình quân thâm niên kinh nghiệm còn khiêm tốn, đặc biệt đối với cán bộ tín dụng của Phòng giao dịch.

- Một số nhân viên tín dụng còn chưa làm hết trách nhiệm, thẩm định còn qua loa và cảm tính, có tình trạng cán bộ tín dụng phụ trách địa bàn rộng, số lượng khách hàng lớn, áp lực về doanh số làm ảnh hưởng chất lượng các món vay. Vẫn còn tồn tại việc đánh giá sai trong khi xem xét các yếu tố pháp lý hoặc không phát hiện được các sai sót trong hồ sơ chứng từ cho vay để phát sinh rủi ro tín dụng cá nhân, cũng có thể do cán bộ tín dụng rủi ro tác nghiệp hoặc có những vấn đề về đạo đức nghề nghiệp, cho vay vì mưu lợi cá nhân. Trong khâu kiểm tra đánh giá người vay, tính khả thi của phương án xin vay… do cán bộ tín dụng có thái độ chủ quan, quá tin tưởng vào khách hàng quen của mình mà đã xem nhẹ khâu này đã dẫn đến cho vay vượt quá khả năng chi trả của khách hàng.

- Hiện tại việc kiểm soát rủi ro qua hợp đồng bảo đảm trước khi cho vay, đã được hỗ trợ một phần từ Trụ sở chính thông qua các bộ mẫu hợp đồng chung, các thông tin cụ thể từng khoản vay do chi nhánh tự điền. Do đó mà tại Chi nhánh vẫn còn trường hợp cán bộ sao chép của hồ sơ khác nhưng quên chỉnh sửa và lãnh đạo phòng không rà soát ký hợp đồng dễ dẫn đến gây khó khăn cho ngân hàng khi có tranh chấp xảy ra. Công tác kiểm tra giám sát trong và sau khi giải ngân được thực hiện định kỳ 6 tháng/lần chung cho tất cả các khách hàng, tuy nhiên tại chi nhánh có một số trường hợp kiểm tra còn mang tính hình thức không dựa trên số liệu kiểm tra thực tế, hỏi thông tin và gửi biên bản cho khách hàng ký. Quá trình kiểm soát rủi ro tín dụng chưa thực sự được triển khai toàn diện và đầy đủ, hiệu quả chưa cao.

- Tư duy trong quá trình quyết định cho vay hiện nay tại các ngân hàng Việt Nam nói chung và tại Vietcombank Bắc Ninh nói riêng, không chỉ riêng nhân viên tín dụng mà ngay cả một số lãnh đạo ngân hàng vẫn thường quá coi trọng yếu tố tài sản bảo đảm và coi đó là yếu tố quan trọng nhất khi quyết định cho vay. Với tư duy


cũ đó, cán bộ tín dụng chưa thật sự đánh giá đúng mức tư cách cá nhân vay vốn, không coi trọng tính khả thi của phương án sản xuất, kinh doanh từ đó dẫn đến việc thẩm định còn sơ sài có tính hình thức. Đây là điều hết sức đáng lo ngại, một mặt ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng cá nhân của ngân hàng, mặt khác bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh tốt.

- Nguồn lực phân bổ cho hoạt động bán lẻ, cụ thể là hoạt động cho vay KHCN còn rất hạn chế, mà hoạt động bán lẻ lại rất cần đến nhân lực. Thực tế, nhân lực cán bộ tín dụng KHCN tại Vietcombank còn rất mỏng, chưa đáp ứng dược nhu cầu công việc. Theo nghiên cứu của Phòng Quản lý bán sản phẩm bán lẻ của Vietcombank, cứ mỗi cán bộ tín dụng KHCN của các ngân hàng TMCP (Techcombank, ACB, MB bank…) có 3-4 cán bộ hỗ trợ tín dụng (gọi điện tư vấn, chào sản phẩm, soạn hợp đồng bảo đảm, hợp đồng tín dụng…) thì tại Vietcombank cán bộ tín dụng KHCN phải tự thực hiện gần như toàn bộ các công việc trên, từ khâu tiếp cận khách hàng đến hậu kiểm. Năng suất lao động của cán bộ tín dụng KHCN luôn ở mức cao, tiềm ẩn rủi ro tín dụng. Bình quân mỗi cán bộ tín dụng KHCN tại Vietcombank Bắc Ninh quản lý khoảng 150 KHCN (trong đó khoảng 60 khách hàng là Hộ kinh doanh, 90 KH dự nợ trung dài hạn) với dư nợ bình quân khoảng 120 tỷ đồng, điều này cho thấy khối lượng công việc tác nghiệp hàng ngày rất lớn, thời gian hậu kiểm khách hàng cũ và chào mới khách hàng cũng bị hạn chế. Trung bình khu vực miền Bắc, mỗi cán bộ tín dụng KHCN quản lý dư nợ khoảng 100 tỷ đồng.

Xem tất cả 139 trang.

Ngày đăng: 26/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí