Khái Niệm Và Mục Tiêu Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng

15


hợp hoặc quá tập trung cho vay một ngành, một lĩnh vực, một nhóm khách hàng, một khách hàng. Nó là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng. Rủi ro danh mục được phân thành rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.

+ Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố, đặc điểm riêng có mang tính chất riêng biệt bên trong mỗi chủ thể đề nghị cấp tín dụng hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng.

+ Rủi ro tập trung là do ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều vào một số khách hàng, một ngành kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.

Nếu phân loại theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi ro thì rủi ro tín dụng được phân ra thành rủi ro khách quan và rủi ro chủ quan.

(1) Rủi ro khách quan là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch họa, người vay bị chết, mất tích và các biến động ngoài dự kiến khác làm thất thoát vốn vay trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách.

(2) Rủi ro chủ quan là do nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay và người cho vay vì vô tình hay cố ý làm thất thoát vốn vay hay vì những lý do chủ quan khách quan khác.

Nếu căn cứ vào tính chất của rủi ro, RRTD bao gồm:

(1) Rủi ro sai hẹn: Đó là RRTD khi người vay sai hẹn trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đã ký kết bao gồm gốc và/hoặc lãi vay. Sự sai hẹn này do trễ hạn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

(2) Rủi ro mất vốn: Đó là rủi ro mà người vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng bao gồm cả gốc và/hoặc lãi vay.

1.1.5.3. Nguyên nhân rủi ro tín dụng


a. Nguyên nhân từ phía ngân hàng

Thực tế kinh doanh của Ngân hàng trong thời gian qua cho thấy rủi ro tín dụng xảy ra là do những nguyên nhân sau:

16


- Ngay hàng đưa ra chính sách tín dụng không phù hợp với nền kinh tế và thể lệ cho vay còn sơ hở để khách hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn của Ngân hàng.

- Do cán bộ Ngân hàng chưa chấp hành đúng quy trình cho vay như: không đánh giá đầy đủ chính xác khách hàng trước khi cho vay, cho vay khống, thiếu tài sản đảm bảo, cho vay vượt tỷ lệ an toàn. Đồng thời cán bộ Ngân hàng không kiểm tra, giám sát chặt chẽ về tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng.

- Do trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn nên việc đánh giá các dự án, hồ sơ xin vay còn chưa tốt, còn xảy ra tình trạng dự án thiếu tính khả thi mà vẫn cho vay.

- Cán bộ Ngân hàng còn thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm đạo đức kinh doanh như: thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn, xâm tiêu khi giải ngân hay thu nợ, đôi khi còn nể nang trong quan hệ khách hàng.

- Ngân hàng đôi khi quá chú trọng về lợi nhuận, đặt những khoản vay có lợi nhuân cao hơn những khoản vay lành mạnh.

- Do áp lực cạnh tranh với các Ngân hàng khác.

- Do tình trạng tham nhũng, tiêu cực diễn ra trong nội bộ Ngân hàng

Quy trình thẩm định, đo lường RRTD, giám sát và thu hồi nợ không hiệu quả, đều làm khách hàng có thể lợi dụng chiếm dụng vốn của ngân hàng. Chính sách tín dụng không hợp lý với sự thay đổi của thị trường sẽ làm tăng số lượng khách hàng hoạt động không hiệu quả, cũng như việc thực hiện mục tiêu lợi nhuận mà coi nhẹ mục tiêu an toàn của ngân hàng. Quá trình thu thập thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác làm ảnh hưởng sai lệch về chất lượng khách hàng, làm cán bộ thẩm định có cái nhìn sai lệch về khách hàng. Tư cách đạo đức của chuyên viên thẩm định cũng quyết định tới RRTD mà ngân hàng có thể gặp phải, vì tư lợi mà cán bộ tín dụng (CBTD) làm đẹp hồ sơ khách hàng, vì thành tích mà CBTD không thông báo thực trạng của khách hàng khi khách hàng có chiều hướng kinh doanh xấu đi,… CBTD không kiểm tra, theo dõi thường xuyên tình hình biến động của khách hàng cũng như TSBĐ nên không kịp thời đưa ra các biện pháp giảm thiểu rủi ro.

b. Nguyên nhân từ phía khách hàng

- Người vay vốn sử dụng vốn vay sai mục đích, sử dụng vào các hoạt động có rủi ro cao dẫn đến thua lỗ không trả được nợ cho Ngân hàng.

17


- Do trình độ kinh doanh yếu kếm, khả năng tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh của lãnh đạo còn hạn chế.

- Khách hàng vay ngắn hạn để đầu tư vào tài sản lưu động và cố định.

- Khách hàng sản xuất kinh doanh thiếu sự linh hoạt, không cải tiến quy trình công nghệ, không trang bị máy móc hiện đại, không thay đổi mẫu mã hoặc nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm...dẫn tới sản phẩm sản xuất ra thiếu sự cạnh tranh, bị ứ đọng trên thị trường khiến cho khách hàng không có khả năng thu hồi vốn trả nợ cho Ngân hàng.

- Do bản thân khách hàng có chủ ý lừa gạt, chiếm dụng vốn của Ngân hàng, dùng một loại tài sản thế chấp đi vay nhiều nơi, không đủ năng lực pháp nhân.

Việc khách hàng không trả nợ đúng và đủ theo cam kết trong hợp đồng tín dụng có thể do tư cách đạo đức của khách hàng, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng gặp khó khăn, cơ cấu vốn khách hàng không hợp lý, hoặc kế hoạch dòng tiền của khách hàng không sát với tình hình thực tế,… Tất cả các yếu tố đó sẽ ảnh hưởng tới khả năng trả nợ theo hợp đồng tín dụng của khách hàng, do đó khi thẩm định khách hàng ngân hàng cần xem xét kỹ các yếu tố trên.

c. Nguyên nhân từ môi trường bên ngoài

Những nguyên nhân từ môi trường bên ngoài mang tính bất khả kháng, ngân hàng không thể kiểm soát được mà chỉ có thể dự báo và thực hiện dự phòng trước sự biến động của các yếu tố này. Các yếu tố môi trường bên ngoài bao gồm:

- Do sự thay đổi bất thường của các chính sách, do thiên tai bão lũ, do nền kinh tế không ổn định.... khiến cho cả Ngân hàng và khách hàng không thể ứng phó kịp.

- Do môi trường pháp lý lỏng lẻo, thiếu đồng bộ, còn nhiều sơ hở dẫn tới không kiểm soát được các hiện tượng lừa đảo trong việc sử dụng vốn của khách hàng.

- Do sự biến động về chính trị - xã hội trong và ngoài nước gây khó khăn cho khách hàng dẫn tới rủi ro cho Ngân hàng.

- Ngân hàng không theo kịp đà phát triển của xã hội, nhất là sự bất cập trong trình độ chuyên môn cũng như công nghệ Ngân hàng.

18


- Do sự biến động của kinh tế như suy thoái kinh tế, biến động tỷ giá, lạm phát gia tăng ảnh hưởng tới khách hàng cũng như Ngân hàng.

- Sự bất bình đẳng trong đối sử của Nhà nước dành cho các NHTM khác

nhau.

- Chính sách Nhà nước chậm thay đổi hoặc chưa phù hợp với tình hình phát

triển đất nước.

Tất cả các yếu tố này sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp thu nhập cũng như sức tiêu dùng trong dân cư, hoạt động sản xuất của khách hàng và cơ chế cho vay của ngân hàng,… Khi các yếu tố này biến động theo chiều hướng xấu sẽ làm suy giảm năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giảm thu nhập của người dân từ đó khách hàng giảm khả năng trả nợ ngân hàng làm RRTD của ngân hàng gia tăng.

1.2. Quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại


1.2.1. Khái niệm và mục tiêu quản trị rủi ro tín dụng


1.2.1.1. Khái niệm


Quản trị rủi ro chính là trung tâm của hoạt động quản trị điều hành của mỗi NHTM. Hiểu một cách đơn giản thì quản trị rủi ro chính là quá trình các NHTM áp dụng các nguyên lý, các phương pháp và kinh nghiệm quản trị ngân hàng vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình để giám sát phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng, đầu tư và các hoạt động kinh doanh khác để ngăn chặn tổn thất thiệt hại cho ngân hàng, đồng thời không ngừng nâng cao sức mạnh và uy tín của ngân hàng trên thương trường. Quản trị rủi ro là bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh doanh của mỗi NHTM, đồng thời với mỗi loại rủi ro cụ thể lại áp dụng các phương pháp quản trị riêng.

Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững. Đồng thời, phải tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, từ đó tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn của NHTM.


Theo Peter Rose (2004): Quản trị rủi ro tín dụng là việc các nhà quản trị rủi ro tín dụng bằng các nghiệp vụ của ngân hàng để hạn chế khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.

Theo Đinh Xuân Hạng (2012): Quản trị rủi ro tín dụng trong ngân hàng là tổng hóa các biện pháp, các chính sách để nắm bắt được sự phát sinh và lượng hóa được những tổn thất tiềm ẩn từ đó tìm cách giảm thiểu hoặc loại bỏ những tổn thất này.

Như vậy, quản trị rủi ro tín dụng là quá trình các ngân hàng tiến hành hoạch định, tổ chức, triển khai thực hiện và giám sát, kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng với mức rủi ro có thể chấp nhận.

1.2.1.2. Mục tiêu


Xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt động tín dụng, mục tiêu quản trị rủi ro tín dụng là tối đa hóa thu nhập bằng cách duy trì rủi ro tín dụng ở mức chấp nhận được. Ngân hàng quản trị rủi ro tín dụng theo danh mục cho vay tổng thể cũng như các khoản cho vay riêng lẻ; xem xét các mối tương quan giữa rủi ro tín dụng với các loại rủi ro khác. Quản trị rủi to tín dụng có hiệu quả là một bộ phận quan trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai trò cốt lõi cho sự thành công của ngân hàng trong dài hạn.

1.2.2 Nội dung quản trị rủi ro tín dụng của NHTM


1.2.2.1 Chính sách tín dụng


Chính sách tín dụng quy định những nguyên tắc cơ bản chung nhất của hoạt động cấp tín dụng nhằm thống nhất hoạt động cấp tín dụng đối với các tổ chức và cá nhân trong khuôn khổ mức rủi ro hợp lý. Chính sách tín dụng được lập nhằm đảm bảo hoạt động tín dụng được thực hiện trên cơ sở khách quan, thống nhất, minh bạch và tuân thủ đúng quy định của Pháp luật. Dựa trên những nguyên tắc cơ bản của chính sách tín dụng và những văn bản pháp luật, NHTM xây dựng những quy định, quy trình, thể lệ để hướng dẫn chi tiết hoạt động tín dụng.


Mỗi một ngân hàng có một chính sách tín dụng khác nhau phụ thuộc vào điều kiện thị trường, môi trường chính sách kinh tế vĩ mô, tuy nhiên đều có những nội dung cơ bản sau:

- Chính sách tín dụng được xây dựng trên những cơ sở nhất định như: Các quy định của Pháp luật, của NHTW về hoạt động tín dụng; Định hướng chiến lược dài hạn của ngân hàng; Phương châm kinh doanh đảm bảo an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.

- Phân cấp quản lý ưu tiên khách hàng và đối tượng khách hàng theo từng vùng địa lý theo chiến lược của ngân hàng. Quy định những trường hợp khuyến khích, hạn chế cho vay, thận trọng trong cho vay, không cho vay.

- Xây dựng một chính sách tín dụng an toàn, hiệu quả và toàn diện đối với một hoặc một số nhóm khách hàng. Để ra quyết định quan hệ tín dụng đối với một đối tượng khách hàng, ngân hàng phải phân tích tình hình khách hàng một cách toàn diện. Phải căn cứ vào danh mục tín dụng ngân hàng: laọi tín dụng, kỳ hạn tín dụng, độ lớn tín dụng và chất lượng tín dụng.

- Phân cấp thẩm quyền cho vay đến từng cán bộ tín dụng, không phải cán bộ tín dụng nào cũng được phụ trách và quản lý các khoản vay với mức dư nợ cao, nàh quản lý phải sắp xếp và phân loại đội ngũ cán bộ tín dụng theo nhóm và phân cấp hạn mức cho cán bộ tín dụng. Mặt khác, phân cấp hạn mức tới từng đơn vị, tuỳ vào khả năng và tình hình hoạt động của từng đơn vị mà phân cấp hạn mức cho phù hợp.

- Quy trình xử lý công việc, phân cấp chịu trách nhiệm trong công việc và báo cáo thông tin trong nội bộ phòng tín dụng.

- Quy trình tiếp nhận, kiểm tra và ra quyết định đối với đơn xin vay của khách hàng. Quy trình thẩm định phải đảm bảo tính khoa học đồng thời hạn chế được rủi ro.

- Danh mục các loại tài sản thế chấp là TSĐB và những loại tài sản không được ngân hàng chấp nhận là TSĐB.

1.2.2.2 Tổ chức bộ máy quản trị rủi ro tín dụng của NHTM


Bộ máy quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại được thể hiện qua hai mô hình:


Mô hình thứ nhất: được bố trí theo hướng một phòng tín dụng quản lý, quyết định toàn bộ khoản vay.

Hình 1 1 Mô hình thứ nhất về tổ chức quản trị rủi ro tín dụng Nguồn Phan 1


Hình 1.1 Mô hình thứ nhất về tổ chức quản trị rủi ro tín dụng


(Nguồn: Phan Thị Thu Hà, 2019)


Theo mô hình quản trị rủi ro tín dụng này thì cán bộ tín dụng phải thực hiện từ khâu tiếp nhận hồ sơ khách hàng cho đến khi kết thúc tất toán, thanh lý hợp đồng.

Định kỳ hoặc đột xuất có đợt kiểm tra hồ sơ tín dụng và thực tế khách hàng của Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ trong ngân hàng.

Quy trình trên cho thấy cơ cấu tổ chức không có sự độc lập giữa chức năng bán hànhm tác nghiệp và quản trị rủi ro. Một cán bộ tín dụng gần như quản lý vay ở mọi khâu. Điều này mang đến lợi ích là tiện lợi cho khách hàng, đơn giản trong việc giải trình hồ sơ chỉ với một cán bộ tín dụng giải quyết hồ sơ nhanh chóng. Đối với ngân hàng, cán bộ tín dụng dễ nắm bắt và hiểu rõ hồ sơ, giám sát chặt chẽ khoản vay.

Tuy nhiên, điểm bất lợi là quyết định cấp tín dụng có thể thiếu yếu tố khách quan, thiếu sự kiểm tra giám sát, thiếu cái nhìn vĩ mô đối với toàn bộ danh mục cho vay. từ đó, có thể xảy ra những lựa chọn bất lợi do trình độ, đạo đức cán bộ tín dụng kém, thiếu thông tin giám sát thường, chủ quan trong đánh giá. Kết quả dễ nảy sinh nợ có vấn đề, ảnh hưởng chất lượng tín dụng ngân hàng.

Mô hình thứ hai: Tách riêng các chức năng tiếp thị, quan hệ khách hàng, thẩm định rủi ro độc lập, quyết định tín dụng và quản lý nợ


Hình 1 2 Mô hình thứ hai về tổ chức quản trị rủi ro tín dụng của NHTM 2


Hình 1.2 Mô hình thứ hai về tổ chức quản trị rủi ro tín dụng của NHTM


(Nguồn: Phan Thị Thu Hà, 2019)


Theo mô hình này, các bộ phận chức năng như tiếp thị, quan hệ khách hàng, thẩm định rủi ro độc lập, quyết định tín dụng và quản lý nợ được tách biệt rõ ràng. Cùng với đó là việc phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, đảm bảo tính độc lập, khách quan. Ngoài ra đối với mô hình này có sự giám sát và kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên của cán bộ các cấp liên quan tới tín dụng và bộ phận kiểm tra giám sát tín dụng độc lập.

Mô hình này có ưu điểm hơn so với mô hình thứ nhất ở chỗ có sự tách bạch giữa bộ phận tiếp thị và thẩm định, giúp quyết định cho vay đảm bảo tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá sâu hơn, mang tính khách quan hơn, tăng cường khả năng giám sát từ đó giúp nhận dạng rủi ro tiềm ẩn và có biện pháp phòng ngừa thích hợp.

1.2.2.3 Quy trình quản trị rủi ro tín dụng của NHTM

Hoạt động của ngân hàng chủ yếu là huy động tiền nhàn rỗi từ những chủ thể thừa vốn để cho những người thiếu vốn vay với mục đích thu hồi được tiền gốc và lãi cho vay vào một thời điểm nhất định trong tương lai. Tuy nhiên, cùng với thời gian, hoạt động cho vay của ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro khiến ngân hàng không thể thu hồi gốc và lãi đúng hạn.

Bên cạnh đó, rủi ro và lợi nhuận là 2 mặt của một vấn đề, muốn có lợi nhuận phải chấp nhận rủi ro, nếu không chấp nhận rủi ro sẽ không bao giờ thu được lợi nhuận. Do đó, không phải có hay không có rủi ro, mà việc nâng cao chất

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 21/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí