Điều kiện cho vay.
- Khách hàng phải có năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
- Khách hàng phải có khả năng tài chính đảm bảo trả được nợ trong thời hạn cam kết.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi, phương án đầu tư phục vụ đời sống khả thi kèm phương án trả nợ khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật.
Thực hiện đầy đủ các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của ngân hàng.
2.1.1.4. Bảo đảm tín dụng
Khái niệm
Bảo đảm tín dụng còn được gọi là bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị rủi ro tín dụng KHCN tại Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh Vĩnh Thuận Kiên Giang - 2
- Phương Pháp Thu Thập Số Liệu Và Phương Pháp Nghiên Cứu.
- Trình Bày Tổng Quan Cơ Sở Lý Luận Về Tín Dụng Ngân Hàng, Rủi Ro Tín Dụng, Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng, Trình Bày Sơ Lược Về Các Đề Tài Được
- Điều Kiện Thực Hiện Mô Hình Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng.
- Phân Tích Tình Hình Tín Dụng Và Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam Chi Nhánh Vĩnh Thuận - Kiên Giang
- Kết Quả Kinh Doanh Của Nhn 0 &ptnt Chi Nhánh Vĩnh Thuận Kiên Giang Trong 3 Năm (2014 – 2016).
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Các hình thức bảo đảm tín dụng
Bảo đảm tín dụng được thể hiện bằng nhiều hình thức bảo đảm khác nhau.
Thế chấp tài sản
Thế chấp tài sản là việc bên đi vay sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình hay giá trị quyền sử dụng hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ với bên cho vay và không chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp. Các loại bất động sản và tài sản gắn liền; giá trị quyền sử dụng đất. Bảo đảm bằng thế chấp tài sản được áp dụng phổ biến trong ngân hàng đặc biệt là đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Bảo đảm bằng thế chấp tài sản cho phép người vay được sử dụng tài bảo đảm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, quá trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản và giảm giá trị của tài sản, do khả năng kiểm soát của ngân hàng còn hạn chế sẽ gây thiệt hại cho ngân hàng.
Cầm cố tài sản.
Cầm cố tài sản là việc bên đi vay giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ, tài sản có loại không cần phải
đăng ký quyền sở hữu, có loại cần đăng ký sở hữu như xe, phương tiện vận chuyển đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, khi cầm cố tài sản phải giao cho bên cho vay. Đối với tài sản có đăng ký sở hữu, khi cầm cố hai bên có thể thỏa thuận để bên cầm cố giữ tài sản hoặc giao tài sản cho bên thứ 3 giữ.
Khi cho vay dựa trên tài sản cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ, an toàn của vật cầm cố như về quyền sở hữu của khách hàng, khả năng chi trả của giấy tờ, giá trị thị trường khi xảy ra rủi ro. Ngân hàng phải cùng khách hàng định giá vật cầm cố, ký kết hợp đồng cầm cố, quy định nghĩa vụ của các bên trong quá trình cầm cố, quyền phát mãi tài sản khi khách hàng không thanh toán nợ cho ngân hàng.
Bảo lãnh của bên thứ ba.
Bảo đảm bằng bảo lãnh của bên thứ ba là việc bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi đến hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng. Đối với người bảo lãnh chưa có uy tín, ngân hàng đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo cho bảo lãnh đó.
2.2. RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
2.2.1. Rủi ro tín dụng.
2.2.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng.
Theo thông tư Số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 do Thống đốc NHNN ban hành Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì khái niệm rủi ro tín dụng được định nghĩa như sau:
“ Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng” là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Như vậy có thể kết luận “ Rủi ro tín dụng ” là rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không có khả năng trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.
2.2.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng.
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia như sau:
Rủi ro tín dụng
Rủi ro giao dịch
Rủi ro danh mục
Rủi ro lựa chọn
Rủi ro bảo đảm
Rủi ro nghiệp vụ
Rủi ro nội tại
Rủi ro tập trung
Hình 2.1. Sơ đồ phân loại rủi ro
Theo sơ đồ trên thì rủi ro được chia ra thành hai loại là rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục.
Rủi ro giao dịch: là một hình thức rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều kiện trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý khoản vay có vấn đề.
Rủi ro danh mục: Là một hình thức rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng được phân chia thành hai loại: Rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc nghành, lĩnh vực kinh tế nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong
cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
2.2.1.3. Đặc điểm của rủi ro tín dụng.
Rủi ro mang tính tất yếu vì nó luôn gắn liền với sự vận động của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường người kinh doanh không biết trước được những biến động của thị trường trong tương lai. Nên các ngân hàng cần đánh giá cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp và dựa trên mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận để tìm được những lợi ích xứng đáng, những rủi ro ngân hàng phải chấp nhận. Do đó ngân hàng cần chủ động tìm ra các phương pháp đối phó với rủi ro.
Rủi ro mang tính gián tiếp. Đặc điểm này xảy ra sau khi ngân hàng giải ngân vốn vay và quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Do ngân hàng thường được biết về thông tin sử dụng vốn của khách hàng sau hoặc không đầy đủ thông tin về những rủi ro khách hàng gặp phải khi sử dụng vốn.
Rủi ro mang tính đa dạng và phức tạp. Đặc điểm này mang tính tất yếu đối với các NHTM vì ngân hàng đóng vai trò trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ. Là hệ quả của rủi ro mang tính gián tiếp vì mối liên hệ gián tiếp với rủi ro tín dụng được thể hiện rò hơn qua tính đa dạng và phức tạp của rủi ro.
2.2.2. Nguyên nhân xảy ra rủi ro tín dụng tại các ngân hàng.
2.2.2.1. Nguyên nhân từ phía khách hàng.
- Sử dụng vốn sai mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, hiệu quả kinh doanh không phát huy triệt để nên khi đến hạn không có khả năng thanh toán cho ngân hàng.
- Khách hàng không có thiện chí trả nợ vay, kéo dài nợ khi đến hạn hoặc cố ý không trả nợ và chiếm dụng vốn ngân hàng.
- Khả năng quản lý kinh doanh kém. Doanh nghiệp không có phương án kinh doanh hiệu quả, không có khả năng dự đoán kinh tế trong tương lai, hạch toán ngân quỹ không chính xác, không dự tính được các khoản chi trong tương lai nên dẫn đến xác định sai thu nhập trả nợ ngân hàng.
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Khi quyết định cho vay ngân hàng cần chú ý đến những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, tỷ lệ nợ cao so với vốn tự có. Cán bộ tín dụng cần xem xét kĩ lại sổ sách kế toán mà khách hàng cung cấp, vì đôi khi sổ sách kế toán chỉ mang tính hình thức.
2.2.2.2. Nguyên nhân từ bản thân ngân hàng.
Đối với rủi ro tín dụng cho khoản vay, nguyên nhân trước hết về phía ngân hàng chưa có chính sách tín dụng nhất quán đối với việc cho vay, chế độ tín dụng ngắn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền vay. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín về phía ngân hàng có thể kể đến các nguyên nhân sau:
Việc mở rộng hoạt động tín dụng quá mức của ngân hàng thường mang đến nhiều rủi ro tín dụng. Do trong quá trình mở rộng quy mô họat động thì việc lựa chọn khách hàng không kỹ càng, khả năng quan sát, quản lý khách hàng của cán bộ tín dụng đối với việc sử dụng vốn vay giảm hiệu quả, đồng thời quy trình hoạt động tín dụng không còn đảm bảo chặt chẽ theo quy trình.
Trình độ phân tích, thẩm định, đánh giá khách hàng và các dự án vay vốn của các cán bộ còn hạn chế. Đối với các cán bộ tín dụng trực tiếp nhận hồ sơ vay của khách hàng sẽ làm tăng rủi ro tín dụng khi các dự án không khả thi, xem xét khả năng trả nợ của khách hàng chưa chặt chẽ. Chạy theo số lượng không chú trọng đến chất lượng của khoản vay, chủ quan và tin tưởng vào sự thành công phương án/dự án kinh doanh của khách hàng.
Thiếu thông tin về khách hàng hay thiếu thông tin tín dụng tin cậy, kịp thời, chính xác để xem xét trước khi cấp tín dụng. Hệ thống thông tin của ngân hàng về khách hàng chưa chính xác nên việc đánh giá khách hàng chưa chính xác.
Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng còn yếu kém, chính sách đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng. Năng lực chuyên môn của cán bộ tín dụng là yếu tố ảnh hưởng ít vì đa số đã được đào tạo về trình độ chuyên môn, phần lớn là do một số cán bộ vì lợi ích bản thân cấu kết với khách hàng dẫn đến rủi ro cho khoản vay là rất cao.
Ngân hàng thiếu bộ phận chuyên trách theo dòi, quản lý rủi ro, quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng đối tượng khách hàng với từng ngành nghề sản xuất kinh doanh khác nhau để phân tán rủi ro và đưa ra các dự báo cần thiết.
Yếu tố cạnh tranh của các tổ chức tín dụng nhằm thu hút khách hàng khiến các ngân hàng không chú trọng nhiều đến yếu tố chất lượng trong quá trình thẩm định và xem xét hồ sơ khách hàng mà chỉ chú trọng đến lợi nhuận và sẵn sàng chấp nhận rủi ro.
2.2.2.3. Nguyên nhân khách quan.
Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định: Môi trường kinh tế có ảnh hưởng nhiều đến sức mạnh tài chính của ngân hàng và cả khách hàng. Sự phát triển hay trì trệ của môi trường kinh doanh sẽ ảnh hưởng một phần đến lợi nhuận của người đi vay. Khi nền kinh tế giai đoạn phát triển thuận lợi thì hoạt động kinh doanh của người đi vay cũng sẽ ổn định, tài chính an toàn nên rủi ro tín dụng đối với ngân hàng giảm.
Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi: Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh tiền tệ đặc biệt và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy, nó cần được quản lý và điều hành bởi hệ thống pháp luật, chịu sự kiểm soát khắt khe của các cơ quan Nhà nước. Khi môi trường pháp lý hoạt động quản lý và kiểm soát không hiệu quả trong việc đưa ra các quy định sẽ đẩy ngân hàng vào việc kinh doanh tín dụng khó khăn và rủi ro. Ngoài ra, sự thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước chưa thực sự hiệu quả.
Việc triển khai luật và các văn bản đã có vào hoạt động của ngân hàng còn chậm chạp và còn gặp nhiều vướng mắc bất cập. Đây là nguyên nhân thể hiện rò nét nhất vì chịu sự ảnh hưởng của một số văn bản cưỡng chế thu hồi nợ và cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Khi có rủi ro xảy ra ngân hàng không được trực tiếp xử lý tài sản đảm bảo cho khoản vay, do ngân hàng chỉ là cơ quan kinh doanh chứ không phài là cơ quan quyền lực nhà nước. Không được cưỡng chế khách hàng để xử lý tài sản đảm bảo mà phải thông qua Tòa án xử lý với nhiều thủ tục phức tạp và rườm rà.
2.2.3. Hậu quả của rủi ro tín dụng ngân hàng.
Khi có RRTD xảy ra thì ảnh hưởng đến nhiều chủ thể. Trước tiên là ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân ngân hàng và khách hàng và sau đó là tác động đến nền kinh tế.
2.2.3.1. Hậu quả rủi ro tín dụng đối với ngân hàng
Khi xảy ra rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu hồi được vốn gốc và lãi vay và phải thanh toán chi trả cho các khoản tiền huy động khi đến hạn điều này dẫn đến việc ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi, lợi nhuận của ngân hàng bị suy giảm, kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng trong kỳ kinh doanh bị ảnh hưởng. Với số vốn không thu hồi được sẽ làm giảm vòng quay vốn tín dụng làm cho ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả.
Mặt khác, tỷ lệ nợ quá hạn cao, làm cho uy tín và niềm tin vào tiềm lực tài chính của ngân hàng bị suy giảm dẫn đến khả năng huy động vốn của ngân hàng
suy giảm theo.Với một khoản vay không có khả năng thu hồi vốn thì ngân hàng phải sử dụng chính nguồn vốn của mình để chi trả cho các khoản tiền huy động khi đến một mức nhất định, ngân hàng không đủ nguồn vốn để chi trả nữa thì sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản. Và kết quả làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính suy giảm, giảm sức cạnh tranh và uy tín của ngân hàng. Kết quả kinh doanh ngày càng xấu thì dần dần ngân hàng có khả năng thua lỗ và đến thời điểm của sự phá sản nếu không có biện pháp xử lý và khắc phục.
2.2.3.2. Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với khách hàng.
Đối với bản thân của người đi vay không có khả năng hoàn trả sẽ không có cơ hội tiếp cận vốn của ngân hàng, thậm chí đối với tất cả các nguồn vốn khác.
Cơ hội tiếp cận vốn của các chủ thể đi vay khác cũng bị hạn chế do ngân hàng phải hạn chế rủi ro xảy ra nên có các biện pháp thắt chặt trong việc cho vay và mở rộng quy mô hoạt động.
2.2.3.3. Hậu quả rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế.
Ngân hàng được xem là một tổ chức kinh tế đóng vai trò trung gian cho tất cả các ngành kinh tế, là kênh thu hút và cung cấp tiền cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân nên khi ngân hàng xảy ra rủi ro sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến các cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh trong nhiều lĩnh vực kinh tế.
Khi rủi ro xảy ra ở mức tổn thất nhiều đến ngân hàng sẽ có hiệu ứng dây chuyền xảy ra trong hệ thống ngân hàng. Gây nên tình trạng khủng hoảng kinh tế, ảnh hưởng đến cuộc sống an sinh xã hội và phát triển kinh tế của đất nước.
2.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng.
2.2.4.1. Nợ có vấn đề.
Theo Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) của Ủy ban chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế, nợ có vấn đề là các khoản nợ không hiệu quả cụ thể đó là các khoản nợ có chứng cứ khách quan cho thấy khả năng tổn thất, phổ biến nhất là phát sinh vấn đề có ảnh hưởng đến dòng tiền trả nợ dự kiến trong tương lai.
Nợ có vấn đề xảy ra khi khoản nợ chưa đến hạn nhưng có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Dấu hiệu nhận biết nợ có vấn đề:
- Hoạt động kinh doanh theo chiều hướng xấu do các yếu tố khó khăn của nền kinh tế hoặc do chính sách của nhà nước tác động đến các doanh nghiệp khác cùng nghành nghề.
- Khách hàng trả nợ gốc và lãi không đúng thời hạn Hợp đồng tín dụng và thường xuyên thay đổi kỳ hạn hoặc gia hạn nợ.
- Người vay cố tình trì hoãn việc nộp các giấy tờ liên quan đến hồ sơ vay.
- Vốn vay không sử dụng đúng mục đích và khách hàng dựa vào các nguồn trả nợ không thích hợp để trả nợ cho ngân hàng như bán thanh lý tài sản thiết bị, nhà xưởng…
2.2.4.3. Nợ quá hạn và hệ số nợ quá hạn.
Theo thông tư Số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 do Thống đốc NHNN ban hành Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì “ Khoản nợ quá hạn” được định nghĩa là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi đã quá hạn thanh toán ghi trên hợp đồng tín dụng nhưng khách hàng vẫn chưa hoàn trả cho ngân hàng.
Số dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp, ngược lại tỷ lệ nợ quá hạn thấp chứng tỏ tín dụng có chất lượng cao nên chỉ tiêu này phản ánh chính xác hơn mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Khả năng thu hồi nợ quá hạn:
NQH có khả năng thu hồi
NQH có khả năng thu hồi = x 100% Nợ Quá Hạn
NQH không có khả năng thu hồi
NQH không có khả năng thu hồi = x100% Nợ quá hạn