Rủi Ro Tín Dụng Cá Nhân Của Ngân Hàng Thương Mại


Cho vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm, kỳ phiếu hoặc giấy tờ khác trị giá được bằng tiền do các tổ chức tín dụng khác phát hành đối với những khách hàng là chủ sở hữu hợp pháp giấy tờ trị giá được bằng tiền đó.

Cho vay theo hạn mức: Ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu vốn cho các khách hàng cá nhân thực hiện phương án sản xuất kinh doanh có nhu cầu vốn thường xuyên.

Các loại hình cho vay bán lẻ khác

1.2.3 Vai trò của tín dụng cá nhân

Đối với ngân hàng :

Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian trong nền kinh tế, với hoạt động chính là huy động tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội để thực hiện cho vay đối với nền kinh tế. Hoạt động cho vay của ngân hàng phải đảm bảo bù đắp được tất cả chi phí có liên quan và tạo ra được một khoản sinh lời cần thiết để hoạt động kinh doanh của ngân hàng có lãi và tăng trưởng. Đối với tín dụng cá nhân là một danh mục cho vay với lãi suất hấp dẫn, đặc biệt là cho vay tiêu dùng thường có lãi suất cho vay cao hơn lãi suất cho vay kinh doanh. Hơn nữa, số lượng các món vay cá nhân lớn nên rủi ro sẽ được phân tán do đó thu nhập từ cho vay khách hàng cá nhân là một nguồn thu không nhỏ và có thể bù đắp được chi phí hoạt động.

Ngoài ra, khi ngân hàng thương mại kết hợp với các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa như hàng điện tử gia dụng để giúp người tiêu dùng có thể mua hàng trả góp. Việc làm này giúp ngân hàng tăng thêm khách hàng, tránh được rủi ro khách hàng sử dụng vốn sai mục đích

Mặt khác, khi thực hiện tài trợ cho khách hàng là cá nhân thì ngân hàng có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư do nhu cầu sản xuất và đặc biệt là nhu cầu tiêu dùng của khách hàng luôn đa dạng. Do đó ngân hàng có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình và có thể nâng cao thu nhập đồng thời phân tán rủi ro có thể gặp trong hoạt động tín dụng.

Đối với khách hàng :

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

Đối với khách hàng cá nhân vay vốn với mục đích sản xuất kinh doanh thì


Quản trị rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân, hộ gia đình tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần - 4

ngân hàng cung cấp vốn tài trợ cho sản xuất, mở rộng hoạt động kinh doanh

Đối với người tiêu dùng : là người hưởng lợi trực tiếp. Khi mức sống được cải thiện, thu nhập tăng lên, người dân ngày càng có nhu cầu sửa sang nhà cửa, mua sắm hay đi du lịch. Song không phải lúc nào họ cũng có khả năng thỏa mãn được những nhu cầu này. Do khả năng tài chính có hạn, họ không thể có ngay một khoản tiền lớn để thỏa mãn những nhu cầu đó mà phải qua tích lũy. Trong nhiều trường hợp người ta có thể hưởng thụ khi về già. Các khoản vay tiêu dùng đã giúp khách hàng giải quyết vấn đề đó, giúp kết hợp nhu cầu hiện tại với khả năng thanh toán trong tương lai để nâng cao chất lượng cuộc sống của chính bản thân họ.

Đối với nền kinh tế :

Thông qua việc cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng đã trực tiếp hoặc gián tiếp thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Bằng việc cho vay sản xuất kinh doanh đối với khách hàng cá nhân, hộ gia đình, ngân hàng tái trợ vốn cho khu vực kinh tế tư nhân, hộ gia đình, thúc đẩy sự phát triển của thành phần kinh tế này. Mặt khác, như chúng ta đã biết, sản xuất, lưu thông và tiêu dùng là một quá trình trong đó có sự gắn kết chặt chẽ. Sản xuất ra sản phẩm để phục vụ nhu cầu tiêu dùng, do vậy tiêu dùng kích thích sản xuất, là đích mà sản xuất hướng tới. Muốn đẩy mạnh sản xuất thì phải đẩy mạnh tiêu dùng. Thông qua cho vay tiêu dùng, ngân hàng đã góp phần đáng kể vào việc kích cầu nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.

Thông qua cấp tín dụng cho người tiêu dùng, ngân hàng góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo điều kiện tái sản xuất sức lao động, nâng cao khả năng làm việc, hiệu quả công việc mà họ đảm nhận.

Ngoài ra, việc kết hợp với các doanh nghiệp xây dựng, kinh doanh hàng điện tử... cho khách hàng có thể mua hàng trả góp thì ngân hàng đã giúp những doanh nghiệp này bán được hàng và có vốn để tiếp tục tái sản xuất, mở rộng sản xuất.


1.3 Rủi ro tín dụng cá nhân của ngân hàng thương mại

1.3.1 Khái niệm, bản chất của rủi ro tín dụng cá nhân

Khái niệm rủi ro tín dụng cá nhân:

Rủi ro tín dụng cá nhân là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay là cá nhân, hộ gia đình không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.

Bản chất của rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng cá nhân diễn ra trong quá trình ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng cá nhân. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ nào thì ngân hàng đều cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng nào tài ba có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của nhiều khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan, chỉ có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Sau khi phân tích kỹ khả năng có thể xảy ra các rủi ro, ngân hàng phải biết chấp nhận rủi ro, như vậy chấp nhận rủi ro cũng có nghĩa là mạo hiểm nhưng không phải liều lĩnh, thiếu cân nhắc tính toán. Do vậy rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược chung của ngân hàng.


1.3.2 Phân loại và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cá nhân

1.3.2.1 Phân loại rủi ro tín dụng cá nhân

Rủi ro tín dụng cá nhân

Không thu được lãi

đúng hạn

Không thu được vốn

đúng hạn

Không thu

đủ lãi

Không thu đủ vốn (mất

vốn)

Rủi ro tín dụng nói chung và rủi ro tín dụng cá nhân nói riêng xảy ra khi người vay không trả được nợ lãi và nợ gốc đúng hạn, đầy đủ. Dựa trên phương thức quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, ta cũng có thể phân chia rủi ro tín dụng KHCN thành bốn cấp độ theo mức độ rủi ro.


Rủi ro tín dụng cá nhân

Không thu được lãi đúng hạn

Không thu được vốn đúng hạn

Không thu đủ lãi

Không thu đủ vốn (mất vốn)

Lãi treo phát sinh

Nợ quá hạn phát sinh

1.Lãi treo đóng băng

2.Miễn giảm lãi

1. Nợ không có khả năng thu hồi 2.Xóa nợ


Lãi treo phát

sinh

Nợ quá hạn

phát sinh

1.Lãi treo đóng băng

2.Miễn giảm lãi

1. Nợ không có khả năng thu hồi

2.Xóa nợ

Hình 2.1: Sơ đồ về phân loại Rủi ro tín dụng cá nhân ( Nguồn: [ 1 ,tr 12]).

1.3.2.1.1. Không thu được lãi đúng hạn:

Cấp độ thấp nhất là khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó Ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Hình thức rủi ro này được xếp vào mức rủi ro thấp vì ngoại trừ trường hợp khách hàng muốn quỵt nợ, chiếm dụng vốn thì phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân đối trong kỳ hạn thu nợ và trả nợ cuả khách hàng.


1.3.2.1.2. Không thu được vốn đúng hạn:

Khi không thu được vốn đúng hạn tình hình dường như nghiêm trọng hơn, một phần do một lượng vốn cho vay lớn bị mất. Khi đó, Ngân hàng sẽ chuyển số nợ vốn đó sang mục nợ quá hạn phát sinh. Khoản mục này phát sinh vào thời gian đáo hạn của hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, đấy chưa phải là khoản mất mát hiện thực của Ngân hàng vì có thể tiến độ hoạt động kinh doanh cuả khách hàng bị chậm so với kế hoạch đã đề ra trình Ngân hàng.

1.3.2.1.3. Không thu được đủ lãi:

Khi Ngân hàng không thu được đủ lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng hơn. Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã kém hiệu quả đến mức không thể trả đủ lãi cho Ngân hàng. Khi đó, Ngân hàng phải chuyển khoản lãi này vào khoản mục lãi treo đóng băng và thậm chí có thể phải thực hiện miễn giảm lãi cho khách hàng.

1.3.2.1.4. Không thu đủ vốn cho vay:

Tình huống xấu nhất xảy ra khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay và lúc này Ngân hàng đã bị mất vốn. Tại thời điểm này, Ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ, coi như khép lại một hợp đồng tín dụng không có hiệu quả.

Trên đây là bốn hình thức giúp cho NHTM nhận biết rủi ro tín dụng và có biện pháp xử lý. Tuy nhiên, không phải lúc nào gặp rủi ro tín dụng thì Ngân hàng đều phải trải qua bốn trường hợp trên (xem hình 1A). Có trường hợp khách hàng trả lãi rất đầy đủ và đúng hạn nhưng cuối cùng lại không thể trả được nợ gốc cho Ngân hàng. Vì vậy, khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng, người ta thường chú trọng vào các trường hợp có nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng, người ta thường chú trọng vào các trường hợp có nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng như là lãi treo phát sinh và đặc biệt là nợ quá hạn phát sinh. Còn ở các trường hợp khác có lãi treo đóng băng hay nợ không có khả năng thu hồi được coi là rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra những bài học kinh nghiệm.


1.3.2.2 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cá nhân

Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và người đi vay. Nhưng quan hệ tín dụng này tồn tại trong một thời gian, không gian cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Do đó rủi ro tín dụng xuất phát từ 3 đối tượng tham gia vào quan hệ tín dụng, trong đó thì rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan; rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan.

1.3.2.2.1 Nguyên nhân khách quan:

+) Môi trường kinh tế

Hoạt động kinh doanh tiền tệ là một loại hình kinh doanh đặc biệt, rất nhạy cảm, chịu tác động mạnh mẽ từ các yếu tố của nền kinh tế trong nước và thế giới. Trong thời gian qua nền kinh tế nước ta cũng như một số nước trong khu vực có những biến động gây ảnh hưởng không nhỏ đến ngành ngân hàng. Bất kỳ một biến động nào của nền kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng . Như một cá thể tự nhiên, Ngân hàng "khoẻ mạnh" hay không cũng phụ thuộc rất nhiều vào môi trường kinh tế ổn định hay không. .

+) Môi trường pháp lý:

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các yếu tố pháp lý là điều kiện đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Nhưng cũng chính vì vậy, nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh thiếu đồng bộ cũng sẽ gây khó khăn, bất lợi cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Cơ chế, chính sách, quy hoạch của Nhà nước, của chính quyền các cấp thay đổi cũng có thể dẫn đến rủi ro khi khách hàng sử dụng vốn vay của khách hàng.

1.3.2.2.2 Nguyên nhân chủ quan:

+) Rủi ro do các nguyên nhân đến từ phía khách hàng vay:

Thứ nhất, do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay. Đa số các khách hàng khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án


kinh doanh cụ thể, khả thi. Ngân hàng sẽ xem xét phương án kinh doanh đó mới đưa ra quyết định cho vay. Trên thực tế, khách hàng có thể gian lận ngân hàng thể hiện qua việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng phương án đã nêu nên không trả được nợ đúng hạn hoặc không trả được nợ. Ví dụ, khách hàng có thể vay vốn ngắn hạn nhưng lại dùng để mua sắm tài sản cố định và bất động sản, có thể dẫn đến việc không trả nợ đúng hạn...

Thứ hai, do khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng còn yếu, không có đầu óc kinh doanh nên không thể đưa phương án kinh doanh của mình đạt hiệu quả nên việc trả nợ ngân hàng là rất khó khăn. Ngoài ra, nếu khách hàng bị lừa đảo trong kinh doanh hoặc bạn hàng gặp rủi ro thì ngân hàng cũng gặp khó khăn trong việc thu nợ đúng hạn.

Thứ ba, khách hàng gian lận, cố ý lừa ngân hàng được thể hiện qua việc cung cấp những thông tin không chính xác, hay cung cấp thông tin không đầy đủ, che dấu thông tin về bản thân như: thu nhập, quyền sở hữu tài sản, có thể nộp báo cáo tài chính không chính xác, cố ý đưa ra số liệu sai sự thật, phản ánh không đúng thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của đơn vị. Những món cho vay trên cơ sở những thông tin giả như vậy dễ đưa đến rủi ro cho NH

+)Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay :

Thứ nhất, rủi ro do ngân hàng không có chính sách cho vay rõ ràng, phù hợp với thực trạng nền kinh tế. Chính sách cho vay của khách hàng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân hàng đó. Một chính sách cho vay thông nhất, rõ ràng, đầy đủ và đúng đắn sẽ giúp cho cán bộ tín dụng xác định được nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng. Ngược lại khi chính sách cho vay không đầy đủ, không phù hợp với thực trạng nền kinh tế và khả năng của ngân hàng thì sẽ làm cho hoạt động tín dụng đi lệch lạc, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng gây nên rủi ro tín dụng cho ngân hàng.

Thứ hai, do bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng.


Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.

Trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng, sự hạn chế trong khả năng phân tích thẩm định dự án; kiến thức thị trường, kiến thức xã hội hạn chế có thể dẫn đến khi cho vay mà không đánh giá được liệu dự án hay phương án đó có khả thi không.

Thứ ba, do sự thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay. Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.

Thứ tư, do sự hợp tác giữa các NHTM nhằm hạn chế rủi ro chưa thực sự hiệu quả. Sự hợp tác này nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.

Thứ năm, ngân hàng quá chú trọng về lợi tức, đặt mong muốn về lợi tức cao

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/04/2023