Công Tác Thanh Tra, Kiểm Tra Thu Ngân Sách Nhà Nước Của Thành Phố Tuyên Quang


Công tác quyết toán các công trình XDCB hoàn thành chưa được các chủ đầu tư quan tâm đúng mức, thiếu sự rạch ròi khi phân công công việc dẫn đến việc thiếu trách nhiệm làm thất lạc hồ sơ, ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng của công tác quyết toán. Phòng Tài chính-Kế hoạch thành phố được UBND thành phố ủy quyền thành lập Tổ tư vấn thẩm tra quyết toán công trình, tuy nhiên các cán bộ công chức của phòng phải kiêm nhiệm nhiều việc, thiếu công chức có chuyên môn kỹ thuật nên còn chậm trễ trong công tác quyết toán.

2.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra thu ngân sách nhà nước của thành phố Tuyên Quang

Kiểm soát thu NSNN của chính quyền thành phố Tuyên Quang đã được thực hiện bởi nhiều chủ thể kiểm soát với các hình thức kiểm soát khác nhau cụ thể trong bảng.

Bảng 2.5: Hình thức, chủ thể và đối tượng kiểm soát thu của chính quyền thành phố Tuyên Quang tỉnh Tuyên Quang‌

Hình thức kiểm soát

Chủ thể kiểm soát

Đối tượng kiểm soát

Kiểm soát thu qua cấp phát

thanh toán

Kho bạc Nhà nước

Đơn vị dự toán


Giám sát

Hội đồng nhân dân Ban KT - XH thành phố

UBND thành phố,

Phòng Tài chính - Kế hoạch và các đơn vị dự toán

Kiểm tra thẩm quyền chung

UBND thành phố

Phòng Tài chính - Kế hoạch

và các đơn vị dự toán

Thẩm tra việc chấp hành thu

ngân sách nhà nước

Phòng Tài chính

- Kế hoạch

các đơn vị dự toán

Thanh tra việc chấp hành chế

độ chính sách

Thanh tra thành phố

Phòng Tài chính - Kế hoạch

và các đơn vị dự toán

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

Quản lý thu ngân sách nhà nước của thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang - 10

(Nguồn: Phòng Tài chính - Kế hoạch)

- Công tác kiểm soát thu của Kho bạc nhà nước tất cả các khoản thu NSNN của thành phố Tuyên Quang đều đã được kiểm soát trong quá trình thu thông qua hoạt động của Kho bạc Nhà nước. Thực hiện việc rà soát, kiểm tra các hồ sơ, chứng từ ủy nhiệm thu các khoản kinh phí thuộc NSNN đủ điều kiện thanh toán.


- Kho bạc Nhà nước tổ chức thực hiện việc hạch toán kế toán thu định kỳ hàng tháng, hàng quý gửi báo cáo tình hình thực hiện thu ngân sách theo dự toán đã giao và theo Mục lục NSNN cho UBND thành phố thông qua phòng Tài chính - Kế hoạch thành phố, đồng thời Kho bạc Nhà nước cũng thực hiện hạch toán kế toán thu ngân sách tại 15 xã, phường theo định kỳ hàng tháng gửi báo cáo cho Phòng Tài chính - Kế hoạch và gửi thông báo cho UBND các xã, phường biết về các nội dung chi tiết thu của đơn vị. Hiện nay việc gửi báo cáo được thực hiện trên phần mềm quản lý ngân sách.

- Kho bạc Nhà nước, phòng Tài chính - Kế hoạch thành phố và các đơn vị sử dụng NSNN của thành phố Tuyên Quang đã từng bước thực hiện thống nhất quản lý bằng phần mềm kế toán về các nội dung hạch toán thu NSNN như sau:

+ Mẫu chứng từ thu và chi ngân sách nhà nước;

+ Mục lục ngân sách nhà nước;

+ Hệ thống tài khoản, sổ sách, mẫu biểu báo cáo; phương pháp hạch toán, lập sổ; phương pháp lập;

+ Mã số đơn vị sử dụng ngân sách, mã số nguồn thu ngân sách Nhà nước.

+ Niên độ kế toán tại thành phố Tuyên Quang cũng được thống nhất theo năm dương lịch, bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 12 c ng năm. Các kỳ kế toán cũng được quy định thống nhất là theo tháng, theo quý và theo năm. Tháng tính từ ngày 01 đến hết ngày cuối c ng của tháng; quý tính từ 01 tháng đầu quý đến hết ngày cuối c ng của quý; năm tính từ ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 12.

Công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý thu ngân sách cấp thành phố thuộc tỉnh Tuyên Quang vẫn còn một số hạn chế như: còn mang tính hình thức, chưa có biện pháp khen thưởng kịp thời các đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu, thiếu chế tài đủ mạnh để xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm…Do đó, để khắc phục những tồn tại trên, cần phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của mỗi cơ quan tham gia vào quá trình thanh tra, kiểm tra trong cả 3 khâu của chu trình ngân sách. Có cơ chế khuyến khích các tổ chức, cá nhân có nhiều sáng kiến, giải pháp hiệu quả để tăng thu và chống thất thu ngân sách như: thưởng tiền trực tiếp, tặng Bằng khen,


tặng danh hiệu “Chiến sỹ thi đua cơ sở”… Tổ chức phát động và thực hiện phong trào “Thi đua thu,nộp và quản lý NSNN trên địa bàn thành phố Tuyên Quang”, hàng năm tổng kết và tuyên dương, khen thưởng các đơn vị có thành tích xuất sắc. Song song với đó, phải xử lý mạnh tay, công khai các trường hợp vi phạm pháp luật về thuế và thu nộp NSNN theo đúng quy định; Công khai thông tin các đối tượng có dấu hiệu rủi ro về thuế như trốn thuế, nợ thuế…

Các cơ quan thu phải thường xuyên rà soát, đối chiếu các khoản thu nhằm khai thác tối đa các nguồn thu hiện có và phát triển nguồn thu mới. Tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại, trốn lậu thuế thông qua thanh kiểm tra, cưỡng chế hành chính; Phối hợp chặt chẽ giữa các ngành có liên quan kiểm tra, giám sát việc đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế, tình hình kê khai và nộp thuế trên địa bàn để có biện pháp đôn đốc, kịp thời tháo gỡ khó khăn, xử lý mọi vi phạm nợ đọng thuế; Kiểm tra, rà soát lại cơ cấu, số hộ kinh doanh nộp thuế khoán ổn định; định kỳ điều chỉnh những mức thu bất hợp lý cho ph hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và biến động giá trên thị trường. Tiến hành kiểm tra doanh thu, giá cả hàng hóa bán ra, các chi phí hợp lý để tính thuế; kiểm tra chặt chẽ thuế đầu vào trên bảng kê của các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, nhất là các đơn vị có số thuế Giá trị gia tăng lớn, phải hoàn thuế; Kiểm tra, rà soát lại quỹ đất của các chủ thể được giao đất, cho thuê đất… để thu các khoản liên quan đến đất đai theo đúng mức giá quy định.

Tăng cường vai trò giám sát của HĐND thành phố trong quản lý thu ngân sách bằng cách nâng cao năng lực của các thành viên về lĩnh vực TC-NS thông qua việc tổ chức các lớp bồi dưỡng tập huấn kỹ năng hoạt động HĐND; đảm bảo các thông tin, tài liệu, báo cáo có liên quan đến NS được cung cấp cho các đại biểu HĐND một cách kịp thời, chính xác, có hệ thống; đa dạng hóa các kênh thông tin để đại biểu có đầy đủ cơ sở xem xét, nghiên cứu trước khi cho ý kiến biểu quyết các nội dung thuộc thẩm quyền của HĐND thành phố.


2.3. Đánh giá chung công tác quản lý thu ngân sách nhà nước của thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.

2.3.1. Những kết quả đạt được

Trong những năm qua, thành phố Tuyên Quang đã đạt được những kết quả khả quan trong công tác quản lý thu NSNN. Hàng năm đều hoàn thành vượt mức dự toán thu NSNN được UBND tỉnh, HĐND thành phố giao và tăng trưởng so với năm trước. Nhờ vậy, đảm bảo được nguồn lực tài chính để thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm đề ra.

Thứ nhất, công tác lập và giao dự toán thu NSNN của thành phố cơ bản đáp ứng các yêu cầu quy định, chấp hành nghiêm các chính sách, chế độ, định mức thu và thực hiện theo đúng biểu mẫu quy định. Kết quả này đạt được do:

Luật NSNN đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc quản lý chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả NSNN, đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của địa phương.

Sự chỉ đạo sâu sát của thành ủy, HĐND, UBND, kết hợp với sự quản lý chặt chẽ của các ngành Tài chính, Thuế, Kho bạc nhà nước trong quản lý thu ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố.

Thứ hai, đối với công tác quản lý chấp hành dự toán: Số thu ngân sách nhà nước của thành phố có sự tăng trưởng, hàng năm đều đạt và vượt dự toán giao.

- Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý thu ngân sách được bố trí hợp lý, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ, luôn chủ động khai thác nguồn thu và tham mưu với lãnh đạo trong công tác chỉ đạo, điều hành ngân sách.

- Quy trình quản lý thu đơn giản thuận tiện ph hợp với thực tế tại địa phương. Các biện pháp thu và mức thu được áp dụng linh hoạt, đơn giản hóa thủ tục hành chính.

- Căn cứ nhiệm vụ được giao, ngay từ đầu năm, Chi cục Thuế đã phối hợp với Phòng Tài chính - Kế hoạch thành phố tham mưu cho UBND thành phố giao kế hoạch thu NSNN cho các xã, phường và các đơn vị sự nghiệp. Thực hiện công tác uỷ nhiệm thu thuế trên địa bàn thành phố đối với UBND các xã, phường. Tiến hành phân bổ và giao chỉ tiêu thu cho các đội thuế để có cơ sở xây dựng và thực hiện phương án thu NSNN theo đúng quy trình quản lý thuế.


Để quản lý NSNN đối với khu vực cá thể, Chi cục Thuế thành phố c ng với các xã, phường, các Ban quản lý chợ tăng cường quản lý hộ, nắm nguồn thu mới phát sinh, tập trung đôn đốc thu thuế môn bài. Công tác cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thông thoáng, nhanh chóng đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển mạnh nhất là hộ cá thể.

- Chủ động đề xuất với cục Thuế tỉnh về việc phân cấp nguồn thu cho địa bàn thành phố. Tổng số doanh nghiệp trên địa bàn là 760 doanh nghiệp.

- Triển khai thực hiện việc cập nhật dữ liệu vào ứng dụng quản lý thuế tập trung (TMS) và phần mền quản lý ngân sách TABMIS phục vụ công tác chỉ đạo điều hành, thực hiện đúng quy trình về quản lý, thủ tục kê khai, nộp thuế, mức thuế khoán ấn định, quản lý chặt chẽ chế độ hóa đơn chứng từ, theo dõi biến động người nộp thuế.

- Công tác kiểm tra giám sát đạt kết quả tốt thường xuyên chỉ đạo các phòng chức năng phối hợp tiến hành kiểm tra, rà soát các doanh nghiệp trên địa bàn, xác định doanh thu, ngành nghề, kiểm tra doanh nghiệp nợ đọng thuế, tập trung rà soát phân loại nợ, xây dựng biện pháp, phương án cưỡng chế cụ thể với từng doanh nghiệp nợ đọng, duy trì số nợ đọng thuế ở mức dưới 5% tổng thu.

- Phối hợp với Đài truyền thanh thành phố trong việc tuyên truyền và hỗ trợ cho người nộp thuế về chính sách thuế, phí, quản lý thuế, các chính sách thuế mới được sửa đổi, bổ sung. Kiểm soát tốt hoạt động kê khai thuế, huy động kịp thời số thuế phát sinh vào ngân sách.

- Hằng năm UBND thành phố đã tổ chức công tác sơ kết và tổng kết công tác thu ngân sách trên địa bàn đã đưa ra mặt đạt được những mặt hạn chế nêu ra nguyên nhân để khắc phục trong năm tiếp theo.

Thứ ba, Báo cáo quyết toán cơ bản được lập đầy đủ với số liệu trung thực, ph hợp với dự toán được duyệt, đúng mục lục ngân sách nhà nước, đúng quy định. UBND thành phố đã triển khai và chỉ đạo các đơn vị phải căn cứ các quy định của Luật NSNN và hướng dẫn xử lý ngân sách cuối năm và lập, báo cáo quyết toán NSNN hàng năm để thực hiện báo cáo quyết toán. Bên cạnh đó, PhòngTC-KH


thành phố cũng phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn quá trình lập, hoàn thiện báo cáo quyết toán của các đơn vị hưởng ngân sách địa phương.

2.3.2. Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân

Một là, Việc lập dự toán chưa sát với thực tiễn trong hầu hết các năm giai đoạn 2017-2019, dự toán đơn vị lập luôn ở mức thấp trong 3 năm (2017; 2018; 2019) các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra luôn ở mức thấp hơn so với chỉ tiêu của tỉnh và HĐND thành phố giao, thực hiện so với dự toán giao luôn đạt cao hơn so với kế hoạch đề ra, dự toán từ cơ sở xây dựng thường dựa trên các nguồn thu trong năm, số liệu dự báo chưa thực sự sát với cấp trên giao, các khoản thu được vượt so với dự toán hành năm.

Nguyên nhân của tình trạng này là:

Tình hình kinh tế - tài chính biến động khó lường ảnh hưởng tới công tác dự báo các chỉ tiêu kinh cũng như nguồn thu ngân sách. Khối lượng công việc của Phòng Tài chính - Kế hoạch thành phố nhiều, cán bộ thiếu, ngoài công việc chuyên môn còn phải tham gia rất nhiều nhiệm vụ khác của địa phương, cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc tham mưu lập, giao dự toán NSNN và tổng hợp báo cáo quyết toán hàng năm.

Một số cán bộ thu chưa thật sự am hiểu chuyên môn nghiệp vụ, quản lý hộ thiếu liên tục, không sát thực tế, việc theo dõi kết quả thu nộp tiền thuế, theo dõi nợ, báo cáo số liệu chưa chính xác, quản lý hộ mới chưa kịp thời còn để sót hộ, ngược lại có nơi có hiện tượng lạm thu đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp, công tác quản lý sử dụng, thanh toán ấn chỉ thuế còn sai sót.

Để đảm bảo thu NSNN năm sau đạt và cao hơn năm trước nên địa phương thường lập dự toán thu thấp hơn so với nguồn thu thực tế và nội dung chi cao hơn để được tăng hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các bên liên quan trong công tác dự báo nguồn thu.

Hai là, nguồn thu chưa thực sự tương xứng với tiềm lực phát triển kinh tế của huyện, có dấu hiệu không ổn định và bền vững, quá trình thu NSNN có dấu hiệu của việc thất thoát thu ngân sách trên địa bàn. Nguyên nhân của vấn đề này gồm:


Một số cán bộ thu chưa thật sự am hiểu chuyên môn nghiệp vụ, quản lý hộ thiếu liên tục, không sát thực tế, việc theo dõi kết quả thu nộp tiền thuế, theo dõi nợ thuế, báo cáo số liệu chưa chính xác, quản lý hộ mới chưa kịp thời còn để sót hộ, ngược lại có nơi có hiện tượng lạm thu đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp, công tác quản lý sử dụng, thanh toán ấn chỉ thuế còn sai sót.

Cán bộ thu ở các xã, phường vẫn còn thiếu chuyên nghiệp về kinh nghiệm vẫn theo kiểu cũ nhiều khoản thu bằng tiền mặt nhưng không nộp kịp thời vào NSNN vẫn còn tình trạng thu để ngoài sổ sách.

Sự phối hợp cung cấp số liệu để theo dõi và quản lý thu chưa được tốt như đối với thu tiền sử dụng đất tại các khu đấu giá quyền sử dụng đất số tiền đấu giá đất sẽ được nộp vào tài khoản tiền gửi của dự án sau khi thanh toán xong tiền hạ tầng và đề b giải phóng mặt bằng của công trình thì mới nộp vào ngân sách số tiền đất còn lại điều này dẫn đến số thu vào NSNN không kịp thời.

Một số cán bộ trẻ, mới được tuyển dụng nên khả năng tuyên truyền giải thích chính sách thuế, vận động thu nợ còn hạn chế, nhiều trường hợp thiếu kiên quyết, ngại va chạm, còn nể nang do có khi đối tượng nộp thuế là người thân, hàng xóm, bà con. Nghĩa vụ trách nhiệm pháp luật và quyền lợi của đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế, tổ chức và cá nhân có liên quan đến công tác thuế chưa được quy định đầy đủ và thiếu nhất quán giữa các sắc thuế. Do đó chưa đủ cơ sở pháp lý để tổ chức quản lý thuế có hiệu quả. Bên cạnh đó một số quy định còn rườm rà, phức tạp, chưa rõ ràng, minh bạch gây khó khăn, tốn kém cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế, dễ phát sinh tiêu cực trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế.

Công tác thanh tra, kiểm tra còn nhiều bất cập và chưa thường xuyên, công tác tham mưu về kiểm tra ở lĩnh vực XSKD còn thiếu tính kịp thời, đối tượng kiểm tra theo chuyên đề còn ít, chưa có biện pháp xử lý nghiêm những đơn vị chậm nộp dự toán theo quy định.

Công tác thanh, kiểm tra đôi khi chưa triệt để, chưa có biện pháp khen thưởng kịp thời các đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thiếu chế tài đủ mạnh để xử lý nghiêm minh các đối tượng nợ thuế, trốn thuế, gây thất thoát nguồn thu.


Công tác quản lý nợ thuế tuy có nhiều cố gắng nhưng mới chỉ hoàn thành chỉ tiêu thu nợ thuế, vẫn để cho nợ mới phát sinh.

Công tác tuyên truyền pháp luật về thuế và thu ngân sách nhà nước tuy đã được quan tâm nhưng vẫn chưa thực sự thường xuyên, sâu rộng hình thức tuyên truyền chưa đa dạng.

Việc khai thác các ứng dụng trên TMS chưa nhanh, chưa kịp thời nâng cấp cập nhật phần mềm ứng dụng.

Ba là, tiến độ hoàn thành báo cáo quyết toán của một số đơn vị còn chậm làm ảnh hưởng tới tiến độ quyết toán NSNN cấp thành phố. Số liệu quyết toán NSNN cấp thành phố đôi khi rủi ro, sai sót. Nguyên nhân là:

Chất lượng đội ngũ kế toán ngân sách xã, phường chưa đồng đều, còn nhiều bất cập, một số chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chuyên môn nên chưa đáp ứng được yêu cầu theo quy định.

Do Ủy ban nhân dân các xã, phường và các đơn vị dự toán hoàn thành và nộp báo cáo quyết toán năm ngân sách chậm, nên Phòng Tài chính - Kế hoạch thành phố thường tổng hợp Báo cáo quyết toán ngân sách toàn thành phố rất chậm so với thời gian theo quy định.

Bốn là, Vai trò kiểm tra, giám sát của chính quyền cấp thành phố, đặc biệt là HĐND thành phố trong quản lý thu ngân sách nhà nước chưa thực sự hiệu quả. Tình trạng này xuất phát từ nguyên nhân:

Công tác báo cáo định kỳ của các đội thuế còn chậm, chưa phản ánh hết tình hình quản lý nguồn thu trên địa bàn nên không tham mưu đầy đủ, kịp thời cho cấp ủy, chính quyền cấp thành phố để có giải pháp tăng thu và chống thất thu.

Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về thuế của cơ quan thuế chưa được đặt đúng tầm và chưa ph hợp với thực trạng trên địa bàn. Chất lượng kiểm tra còn hạn chế, chưa phát hiện và có các biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi gian lận trong việc tính thuế, kê khai thuế, gian lận trong hoàn thuế, miễn giảm thuế. Chức năng và quyền hạn của thanh tra, kiểm tra thuế còn bị bó hẹp chưa trở thành công cụ có hiệu lực để chống thất thu NSNN và răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm về thuế.

Năm là, Tỷ lệ các khoản thu trên đại bàn được điều tiết cho ngân sách thành phố còn ít chưa tương xứng với tổng thu trên địa bàn khiến cho địa phương thiếu chủ động trong quản lý ngân sách.

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 29/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí