1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu của Việt Nam
Cùng với quả trình đổi mới của GDĐT trong nước, việc nghiên cứu ứng dụng phát triển kĩ thuật dạy học hiện đại đã trở thành chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học giáo dục, CBQL giáo dục các cấp và GV vào công tác sử dụng, phát triển TBDH trong nhà trường, nhằm hướng tới nâng cao chất lượng giáo dục gắn chặt lý thuyết và thực hành. Các công trình nghiên cứu trong nước có thể ra như sau:
Tác giả Nguyên ương có cuốn “Phương tiện kĩ thuật và đồ dùng dạy học” (1995) [31], đã mở đường cho việc nghiên cứu lý luận về phương tiện dạy học trong nhà trường nói chung, Tác giả Lê Hoàng Hảo cho ra đời cuốn “Công t c T trư ng học trong giai đoạn hiện nay” (1998) [17], đã nhấn mạnh vào các định nghĩa về cơ bản về TB trong trường học phổ thông, đưa ra một số tính chất và phân loại TBDH trong nhà trường phổ thông. Ngoài ra còn có một số tác giả nghiên cứu và đưa ra những luận giải về TB trong trường học phổ thông như các tác giả Nguyễn Phúc Châu, Đặng Thành Hưng, Nguyễn Thị Tuyết Oanh, Phạm Viết Vượng... (2010), (2007), (2005) [25, 32, 44]. Các tác giả này đều coi TBDH là một bộ phần cấu thành của nhà trường, của quá trình sư phạm trong nhà trường, không thể tách rời với quá trình đó, là nền tảng kĩ thuật và vật chất để triển khai hiệu quả công tác dạy học và giáo dục.
Bên cạnh đó cũng có hàng loạt các đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án đề cập tới công tác TBDH trong trường học như:
- Đề tài luận văn thạc sỹ giáo dục: “Ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương ph p dạy học ở c c trư ng phổ thông” của Nguyễn Đình Tuấn (2011) [42] đã làm sáng rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về công nghệ thông tin như một phần của cơ sở hạ tầng vật chất trong trường học, và công tác ứng dụng trong dạy và học.
- Đề tài luận án thạc sỹ giáo dục: “Thực trạng và một số biện pháp nâng cao hiệu quả công t c T trong nhà trư ng phổ thông” của tác giả Phạm Việt H ng (2016) [23], đã đánh giá thực trạng của công tác TBDH trường học phổ thông hiện nay và cũng chỉ ra những biện pháp nâng cao công tác TBDH này.
- Đề tài cấp bộ: “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TB giáo dục, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông tại các trung tâm giáo dục thư ng xuyên và trung tâm giáo dục” do tác giả Ngô Quang Sơn là chủ nhiệm đề tài, đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiến trong vấn đề sử dụng hiệu quả TB giáo dục, công nghệ thông tin trong nhà trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay (2010) [39].
Tóm lại, các công trình, đề tài trong và ngoài nước nghiên cứu về TBDH trong nhà trường đã trình bày ở nhiều góc độ khác nhau về cấu tạo, nguyên lý và tính chất của TBDH, đưa ra những luận giải khoa học về lý luận và thực tiện về TBDH. Nhưng cũng chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về TBDH trong các nhà trường THCS hiện nay nhất là trong giai đoạn đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.
1.1.2. Các nghiên cứu về quản lý thiết bị dạy học tron các n trường
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý thiết bị dạy học ở các trường trung học cơ sở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông - 1
- Quản lý thiết bị dạy học ở các trường trung học cơ sở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông - 2
- Vị Tr Vai Trò V C Ức Năn Của T Iết Bị Dạ Ọc Đối Với Quá Trìn Iáo Dục Ở Trườn Trun Ọc Cơ Sở
- Quản Lý Thiết Bị Dạy Học Trong Trường Trung Học Cơ Sở
- Vài Nét Về Iáo Dục Bậc Trun Ọc Cơ Sở U N Ườn N
Xem toàn bộ 154 trang tài liệu này.
Từ những năm 1980 của thế kỷ XX, tại một số nước Bắc Mỹ và Châu Âu, xu hướng giáo dục đại chúng hóa đã dẫn đến việc gia tăng rất đông số lượng HS ở nhiều cấp học. Khi các quy mô giáo dục và nguồn lực đáp ứng tỉ lệ thuận với nhau thì các trường cần phải quan tâm đến hiệu suất sử dụng cũng như khai thác triệt để các nguồn lực. Đã có nhiều giải pháp được đưa ra nhằm khai thác tối đa công suất cũng như khắc phục sự thiếu hụt TBDH trong các nhà trường.
Hiện nay, trên phạm vi quốc tế đã có nhiều công trình nghiên cứu và phân tích yếu tố TBDH trong các nhà trường như: ockwood G. và Davies G (1985) [46], với đề các giải pháp nhằm khuyến khích việc, chuyển đổi CSVC giữa các khu vực trong nhà trường… Đặc biệt, trong các hoạt động giám sát giáo dục toàn cầu năm 1995 thì UNESCO đã tiến hành cuộc khảo sát khá toàn diện về hiệu quả của việc khai thác diện tích sử dụng (diện tích hữu dụng và TBDH kèm theo) ở một số trường học ở nhiều nước, châu lục trên thế giới.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu của Việt Nam
Ở trong nước, quản lý TBDH trong giáo dục cũng đã được một số tác giả nghiên cứu và xem xét ở nhiều góc độ khoa học giáo dục khác nhau như: Tác giả Vũ Trọng Rỹ (2004) [38], đã trình bày về vấn đề lý luận quản lý TBDH nhằm hướng dẫn về nghiệp vụ quản lý trong nhà trường. Hai tác giả là Đặng Quốc Bảo và tác giả Nguyễn Thành Vinh (2011) [7], nhìn nhận TB trong phạm trù tổng thể về quản lý trong nhà trường, tác giả Nguyễn Phúc Châu (1999) [6], nhìn nhận TBDH trong trường học cũng trong phạm trù quan hệ tổng thể về quản lý nhà trường. Thêm nữa, còn có một số luận văn Thạc sỹ về chuyên ngành Q GD đã nghiên cứu về vấn đề này như:
- Luận văn Thạc sỹ QLGD của tác giả Trần Đức Hiển (2007) [19], “ c biện pháp quản lý TB dạy học tại ao đẳng Kinh tế - Kĩ thuật Công nghiệp I trong giai đoạn hiện nay”, đề tài này đã đánh giá thực trạng quản lý TBDH tại trường Cao đẳng Kinh tế Kĩ thuật Công nghiệp I và tác giả đã đề
xuất một số biện pháp quản lý nhằm đảm bảo cho sự phát triển và khai thác ra sao cho có hiệu quả.
- Luận văn Thạc sỹ QLGD của tác giả Ngô Thị Phong (2007) [33], “Một số biện pháp quản lý của Hiệu trưởng trong việc trang bị, bảo quản và sử dụng TBDH dạy học ở c c trư ng THCS thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ”, trong đề tài này đã đề cập đến một số biện pháp quản lý hiệu quả của Hiệu trưởng;
Vài năm trở lại đây, vấn đề đảm bảo TBDH cho giáo dục nói chung, cho các nhà trường phổ thông nói riêng đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT cũng là chủ đề được nhiều nhà khoa học, nhà Q GD đề cập tới trong các bài báo khoa học, các báo cáo, tham luận tại hội thảo khoa học quốc gia, quốc tế trong và ngoài nước ví dụ như: Hội thảo quốc gia về “Quản lý CSVC - T trư ng học trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông” do Học viện QLGD tổ chức (2019) [21], đã nêu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong quản lý TBDH trong các nhà trường phổ thông phù hợp với các yêu cầu của đổi mới giáo dục ở bậc phổ thông, đồng thời cũng đưa ra xu hướng đổi mới trong quản lý TBDH trong tương lai. Các tác giả như Đặng Thị Minh Hiền, Nguyễn Thị Hảo... đã nêu lên một số biện pháp quản lý TBDH nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phương tiện dạy học ở trường phổ thông, đề xuất như vấn đề vận dụng mô hình hợp tác công tư trong đầu tư TBDH cho các nhà trường phổ thông.
Trên thực tế, phải khẳng định rằng, những điều kiện về TBDH và vấn đề quản lý TBDH ở các cơ sở giáo dục khác nhau, các địa phương, v ng khác nhau là không giống nhau. Việc nghiên cứu tìm hiểu thực trạng TBDH ở các trường THCS trên địa bàn huyện Thường Tín ở thời điểm chuẩn bị triển khai thực hiện chương trình, sách giáo khoa GDPT mới; từ đó rút ra những nhận định, đánh giá về mức độ đáp ứng đối với yêu cầu đổi mới GDPT; nhằm xây dựng những giải pháp mang tính chất tổng thể, phù hợp với giai đoạn đổi mới là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với ngành giáo dục huyện Thường Tín hiện nay. 1 2 Một số khái niệm có liên quan
1.2.1. Quản lý quản lý iáo dục quản lý n trườn
1.2.1.1. Quản lý
Quản lý đã trở thành một hoạt động phổ biến diễn ra ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và với nhiều cấp độ khác nhau. Trong đời sống xã hội, muốn tồn tại và phát triển, con người đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn như ở tầm quốc
gia, quốc tế đều phải thừa nhận và chịu một sự quản lý nào đó. Trong thời đại này, thuật ngữ quản lý trở nên phổ biến nhưng vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất. Các nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý trên các phương diện khác nhau và các cách tiếp cận khác nhau:
“Quản lí” được Koontz và O’Donnell định nghĩa: “ ó lẽ không có lĩnh vực hoạt động nào của con ngư i quan trọng hơn là công việc quản lý, bởi vì mọi nhà quản lý ở mọi cấp độ và trong mọi cơ sở đều có một nhiệm vụ cơ bản là thiết kế và duy trì một môi trư ng mà trong đó c c c nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định” (1994) [28].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là t c động có mục đ ch, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những ngư i lao động, nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện mục tiêu dự kiến” (1989) [35].
Hai tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và tác giả Nguyễn Quốc Chí cho rằng: “Quản lý là t c động có hướng đ ch, có chủ đ ch của chủ thể quản lý (ngư i quản lý) đến khách thể (ngư i bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt được mục đ ch của tổ chức” (2004) [12].
1. Tác giả Đặng Thành Hưng định nghĩa: “Quản lý là tổ hợp các tác động chuyên biệt, có chủ đ ch của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý nhằm phát huy tiềm năng của các yếu tố, các mối quan hệ chức năng, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và cơ hội để thực hiện tốt các chức năng quản lý (2010) [25]. Tạp chí QLGD (17), tr.8 - 20.
Qua các định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có mục đích, có định hướng của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.
Đối tượng quản lý
Mục tiêu
Có thể mô hình hóa quá trình tác động này như sau:
Chủ thể quản lý
Phương pháp quản lý
Công cụ quản lý
Sơ đồ 1.1. Mô ìn về các ếu tố cấu t n oạt độn quản lý
Như vậy, chủ thể của quản lý có thể là một cá nhân, một nhóm người hay một tổ chức, là nơi tạo dựng ra các tác động quản lý. Đối tượng quản lý là nguồn lực của tổ chức, thành viên của tổ chức…những đối tượng này chịu sự tác động quản lý. Các mệnh lệnh (ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ, các quyết định (thông qua văn bản hoặc không bằng văn bản), các văn bản luật, các chương trình, các chính sách … có thể là công cụ quản lý, là phương tiện tác động.
Nếu các đối tượng quản lý tham gia vào việc xác định mục tiêu thì cũng sẽ có ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý. Hiệu quả quản lý một tổ chức sẽ cao nếu tổ chức đó đặt các mục tiêu của tổ chức mình trên cơ sở của sự hòa nhập giữa các nhu cầu và mục đích của các cá nhân, các nhóm khác nhau trong tổ chức với nhu cầu và mục đích của tổ chức. Điều này đã được chứng minh qua thực tế quản lý của nhiều tổ chức khác nhau. Do đó một nhân tố quan trọng góp phần quyết định hiệu quả quản lý một tổ chức là sự chia sẻ các mục tiêu của một tổ chức, của đối tượng quản lý.
Bốn chức năng cơ bản rất cần thiết cho người quản lý là Kế hoạch - Tổ chức - Chỉ đạo - Kiểm tra có liên quan mật thiết với nhau, nó vừa là điều kiện, vừa là phương tiện để thực hiện tổng hợp các chức năng trên. ối quan hệ giữa các chức năng trong quản lý được thể hiện rõ ở sơ đồ sau gọi tắt là Kế- Tổ- Đạo- Kiểm:
Kế hoạch
Tổ chức
Chỉ đạo
Kiểm tra
Thông tin quản lý
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ về mối quan iữa các c ức năn tron quản lý
Nội dung cụ thể của các chức năng:
Nội dung kế hoạch: Kế hoạch là một chức năng quản lý, nó là khởi điểm của một chu trình quản lý. Kế hoạch chính là quá trình vạch ra các mục tiêu và kế hoạch quyết định phương thức đạt mục tiêu đó. Khả năng thực hiện chức năng kế hoạch phụ thuộc vào các kĩ năng nhận thức và ra quyết định của chủ thể quản lý.
Nội dung tổ chức: Là quá trình phân công và phân phối các nhiệm vụ, sắp xếp nguồn lực để thực hiện mục tiêu. Nó chính là quá trình hình thành nên
cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên và giữa các bộ phận trong một tổ chức với mục đích làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt tiêu tổng thể của tổ chức đó. Tổ chức có chức năng cực kỳ quan trọng, nhờ việc tổ chức một cách có hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp và điều phối tốt hơn các nguồn nhân lực và nguồn vật lực. Nhưng có kế hoạch tốt mà tổ chức tồi thì sẽ không đạt đến mục đích mà tổ chức đã đề ra.
Nội dung chỉ đạo: Chỉ đạo là một quá trình tác động, gây ảnh hưởng đến các thành viên trong một tổ chức để công việc của các thành viên trong tổ chức hướng tới các mục tiêu chung mà tổ chức đó đã đặt ra. Tức là chủ thể quản lý của tổ chức phải làm việc với các NV, xem họ thực hiện các nhiệm vụ được giao của mình như thế nào và bằng nhiều biện pháp khác nhau, chủ thể quản lý phải truyền đạt, phải thuyết phục về các mục tiêu cũng như thúc đẩy các nhân viên đạt được các mục tiêu đó.
Nội dung kiểm tra: Kiểm tra là một quá trình thiết lập và thực hiện các cơ chế thích hợp để đảm bảo tổ chức đạt được các mục tiêu đã đặt ra của tổ chức đó.
1.2.1.2. Quản lý gi o dục
Q GD được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý đến các khách thể, đối tượng quản lý trong quá trình GDĐT, trong đó bao gồm quá trình dạy và quá trình giáo dục ở các cơ sở giáo dục khác nhau. Có nhiều quan niệm khác nhau về QLGD và quan niệm về QLGD của một số tác giả như sau:
Theo tác giả Đặng Thành Hưng: “QLG là qu trình t c động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt kết quả mong muốn một cách hiệu quả nhất” (2010) [24], Tạp chí KHGD (60), tr.7- 9.
Qua đây, Q GD có thể được hiểu là hệ thống tác động có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý. Hệ thống tác động của chủ thể QLGD mang tính tổ chức - sư phạm lên tập thể và cá nhân giáo viên, học sinh, các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm mục đích huy động mọi nỗ lực của tập thể và cá nhân giáo viên, học sinh, các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường tham gia, phối hợp, cộng tác vào mọi hoạt động của nhà trường nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
1.2.1.3. Quản lý nhà trư ng
Nhà trường là một tổ chức và cũng là một thiết chế xã hội, trong đó có các đoàn thể công đoàn, đoàn thanh niên và các tổ chức chuyên môn, các lớp HS, các bộ phận hành chính văn thư, thủ quỹ, kế toán, phòng học bộ môn, thư viện, bảo vệ, thiết bị… trong đó chủ yếu là bộ phận GV và HS.
Đây là tổ chức GD cơ sở mang tính nhà nước, là nơi trực tiếp giáo dục thế hệ trẻ.
Theo khái niệm của tác giả Phạm Minh Hạc thì: “Quản lý nhà trư ng là thực hiện đư ng lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trư ng vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu giáo dục đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng ” (1999) [16].
Qua các khái niệm về quản lý nhà trường của các tác giả trên, có thể hiểu quản lý nhà trường là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của GV, HS và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng GDĐT trong nhà trường.
Và như vậy, việc quản lý trong nhà trường phải được thực hiện một cách toàn diện với mục đích hoàn thiện, phát triển toàn diện nhân cách của thế hệ trẻ một cách hợp lý, khoa học và hiệu quả. Mỗi nhà trường có điều kiện khác nhau, cho nên sự thành công hay thất bại của nhiệm vụ đổi mới, nâng cao hiệu quả giáo dục trong nhà trường sẽ phụ thuộc rất lớn vào điều kiện cụ thể của từng trường. Do vậy, người quản lý phải xem xét những điều kiện đặc thù của nhà trường, phải chú trọng đến việc cải tiến thì công tác QLGD mới được thực hiện có hiệu quả. Có như vậy mới có thể quản lý hiệu quả những hoạt động giáo dục khác nhau trong nhà trường.
1.2.2. iết bị tron trườn ọc
Có nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về TBDH trong trường học hiện nay. Người ta dùng nhiều thuật ngữ TBDH với những nội hàm khác nhau tùy theo mục đích sử dụng.
Trong một số sách giáo khoa giáo dục học và lý luận dạy học, nhiều tác giả cho rằng: TBDH trong nhà trường là những TBDH vật chất, giúp cho người dạy tổ chức quá trình dạy học và giáo dục có hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu và nhiệm vụ dạy học đã đề ra.
Tác giả Vũ Trọng Rỹ đã đưa ra khái niệm về thiết bị dạy học: “TBDH trong nhà trư ng hay phương tiện dạy học và giáo dục, đồ dùng dạy học và giáo dục là thuật ngữ chỉ một vật thể hoặc một tập hợp những đối tượng vật chất được GV sử dụng với tư c ch là phương tiện để điều khiển hoạt động nhận thức của . òn đối với thì đây là là c c phương tiện, là nguồn tri thức, giúp lĩnh hội các khái niệm, định nghĩa và lý thuyết khoa học, từ đó hình thành ở họ những kĩ năng, kĩ xảo, đảm bảo cho việc giáo dục để phục vụ các mục đ ch dạy học và giáo dục” (2004) [38].
Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt và tác giả Hà Thế Ngữ: “TBDH trong nhà trư ng là một tập hợp c c đối tượng vật chất được GV và HS sử dụng với tư cách là những phương tiện điều khiển học tập nhận thức của HS. TBDH là nguồn tri thức phong phú, đa dạng, sinh động đối với , là c c phương tiện giúp cho c c em lĩnh hội và rèn luyện kĩ năng, hình thành kĩ xảo” (1984) [20]. Như vậy, có thể thấy TBDH trong trường học đều nhằm mục đích chung là được huy động vào việc dạy học, học tập và các hoạt động mang tính
giáo dục khác để đạt được mục đích giáo dục.
Tóm lại, TBDH là bao gồm các trang bị, TBDH chuyên dùng, TB giáo dục của các môn học, phương tiện truyền thông, nghe nhìn, giá sách, bảng viết,… Do vậy, TBDH là một hệ thống đa dạng và phong phú về chủng loại và phức tạp về mặt kĩ thuật. TBDH có tính đa dạng và phong phú, tính chất này của TBDH tạo sự phức tạp, không ổn định và không đồng bộ trong việc quản lý và sử dụng vì nó có liên quan đến các vấn đề tài chính, vấn đề chuyên môn sâu, vấn đề thời gian, và liên quan đến vấn đề quản lý.
1.2.3. Quản lý t iết bị tron trườn ọc
Căn cứ vào các khái niệm quản lý, QLGD, quản lý nhà trường và quản lý CSVC - TB, thì có thể đưa ra khái niệm về quản lý TBDH đó là: hệ thống các t c động có mục đ ch của ngư i quản lý nhằm xây dựng, ph t triển và sử dụng có hiệu quả hệ thống TBDH phục vụ đắc lực cho công t c gi o dục và dạy học. Nội dung TBDH mở rộng đến đâu thì tầm quản lý cũng phải rộng và sâu tương ứng. Những bài học và kinh nghiệm thực tiễn đã cho thấy TBDH chỉ phát huy được tác dụng tốt khi được sử dụng trong việc giáo dục, dạy học nếu nó được quản lý tốt. Vì thế, c ng với việc đầu tư trang bị, thì điều quan trọng hơn là chúng ta phải chú trọng đến việc quản lý TBDH trong nhà trường. TBDH là một lĩnh vực vừa mang tính kinh tế, giáo dục, vừa mang tính khoa học và tính giáo dục chúng ta vừa phải tuân thủ những yêu cầu chung về quản lý kinh tế, khoa học mặt vừa phải tuân theo các yêu cầu quản lý chuyên ngành giáo dục thì TBDH mới được quản lý tốt.
1.3 Đổi mới iáo dục p ổ t ôn v n ữn êu cầu đ t ra đối với quản l t iết bị dạ ọc ở trườn trun ọc cơ sở
Nghị quyết số 29-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2013) [1] về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GDĐT), đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã nêu rõ quan điểm đổi mới để “Tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục,