Quản Lý Tài Chính Tại Các Đơn Vị Dự Toán Quân Đội


này thực hiện việc kiểm tra trong đơn vị mình.

Thanh tra tài chính có nhiệm vụ thanh tra việc chấp hành thu, chi và quản lý tài chính của các tổ chức và cá nhân, xem xét giải quyết các đơn khiếu tố về tài chính, kiểm tra các vụ việc đã xảy ra trong hoạt động tài chính công. Các tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thu, nộp NSNN, sử dụng vốn, kinh phí NSNN và quản lý khoản thu, chi tài chính phải tổ chức hạch toán kế toán, lập báo cáo kế toán các khoản thu, chi của NSNN và các khoản thu, chi tài chính theo quy định của pháp luật về kế toán, thống kê, theo chế độ kế toán và Mục lục NSNN áp dụng trong quân đội.

Kiểm toán nhà nước tiến hành kiểm tra và đánh giá các thông tin liên quan tới quá trình quản lý và sử dụng vốn của NSNN tại các đơn vị có sử dụng vốn của NSNN. Quan hệ giữa cơ quan KTNN và đơn vị phải kiểm toán là quan hệ bắt buộc theo luật định. Cơ quan KTNN xác nhận, đánh giá và nhận xét các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo kế toán đã được kiểm toán và chịu trách nhiệm về các nội dung đó. Theo quy định của luật ngân sách, KTNN có nhiệm vụ xác định tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo QTNS các cấp và đơn vị dự toán. Kết quả kiểm toán được báo cáo Chính phủ, Quốc hội và thực hiện trước khi Quốc hội phê chuẩn quyết toán.

Tất cả các đơn vị dự toán phải tôn trọng và chấp hành nghiêm túc những quy định về quản lý ngân sách và công tác kế toán.

Các đơn vị sử dụng ngân sách phải thường xuyên kiểm tra kế toán trong phạm vi đơn vị mình, đảm bảo cho các quy định về kế toán được chấp hành nghiêm minh và số liệu kế toán được báo cáo đầy đủ, trung thực, khách quan. Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện các khoản chi không đúng chế độ quy định của pháp luật phải được thu hồi ngay cho ngân sách.

Báo cáo thu, chi ngân sách của các đơn vị được cơ quan kiểm toán nhà nước hoặc kiểm toán nội bộ kiểm toán theo quy định của Chính phủ và của BQP.


1.2. Quản lý tài chính tại các đơn vị dự toán quân đội

1.2.1. Nhận thức quản lý tài chính

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Quá trình quản lý TC gồm quản lý NSQP, quản lý các hoạt động có thu, bao gồm các khâu chủ yếu từ lập DT; phân bổ, giao DT, tiếp nhận, cấp phát tài chính - tài sản; thanh toán, quyết toán; thanh tra, kiểm tra tài chính, … Trong mỗi khâu có nhiều công việc về tổ chức và nghiệp vụ, có nội dung yêu cầu quản lý cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, yêu cầu của lập DTNS là phải lập đầy đủ các khoản thu chi, tính toán các chỉ tiêu phải sát đúng; yêu cầu của cấp phát thanh quyết toán kinh phí là phải đúng mức, kịp thời, đầy đủ, đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, quân số và đúng nội dung chỉ tiêu DTNS đã được phê duyệt…Do đó, xem xét đánh giá chất lượng của mỗi khâu cũng không giống nhau. Song tổng hợp chất lượng của các khâu, các nội dung công việc thành quản lý TC.

1.2.2. Quản lý tài chính tại các bệnh viện trong quân đội

Quản lý tài chính của Bệnh viện Quân y 354 - Tổng Cục Hậu Cần - 5

Các bệnh viện trong quân đội mang đặc điểm của một đơn vị dự toán Quân đội. Đơn vị dự toán Quân đội là những đơn vị thụ hưởng ngân sách Nhà nước trong Quân đội. Đó là những đơn vị chủ yếu làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sang chiến đấu, chiến đấu; khám chữa bệnh; thực hiện nhiệm vụ sự nghiệp quốc phòng…được đảm bảo tài chính để thực hiện nhiệm vụ từ nguồn ngân sách chi cho Quốc phòng là cơ bản. Các đơn vị này còn được gọi là đơn vị dự toán ngân sách. Theo Từ điển bách khoa Quân sự Việt Nam: “Đơn vị dự toán ngân sách là cơ quan, đơn vị tiếp nhận, phân phối và sử dụng các khoản tiền được cấp phát từ quĩ ngân sách nhà nước. Có nhiệm vụ và quyền hạn trong việc lập dự toán ngân sách thuộc phạm vi trách nhiệm; phân bổ dự toán ngân sách cho đơn vị cấp dưới và tổ chức thực hiện dự toán ngân sách được giao, tổ chức thực hiện công tác kế toán, quyết toán ngân sách của cấp mình và các đơn vị cấp dưới; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện thu, chi ngân sách


và xét duyệt báo cáo quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc”.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính

1.3.1. Nhân tố bên ngoài

* Nhân tố kinh tế

Những năm vừa qua nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: đầu tư trong và ngoài nước được khuyến khích; tăng trưởng kinh tế hàng năm tương đối cao: từ 5-8%; kết cấu hạ tầng phát triển mạnh mẽ; lạm phát được kiềm chế. Đây là cơ sở để nhà nước tăng chi cho lĩnh vực y tế, tạo nguồn thu từ NSNN đối với các bệnh viện. Vì vậy, đầu tư của Nhà nước cho y tế tăng nhiều. Chi NSNN cho y tế hàng năm chiếm khoảng 1% GDP. Đây là nguồn kinh phí chủ yếu cho hoạt động của bệnh viện.

Những năm gần đây đời sống nhân dân được cải thiện so với trước rất nhiều. Nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ tăng lên. Số lượt người đến các cơ sở y tế khám chữa bệnh tăng vọt so với trước. Do đó, nguồn thu viện phí cũng tăng. Tuy nhiên cùng với sự phát triển kinh tế là sự phân hoá giàu nghèo trong tầng lớp dân cư dẫn đến việc chỉ khoảng 30% người dân đủ khả năng tự chi trả đầy đủ chi phí khám chữa bệnh; hơn 30% thuộc diện không chịu nổi mức viện phí như hiện nay.

Tuy nhiên, do nền kinh tế tăng trưởng tương đối mạnh nhưng do xuất phát điểm thấp lại chưa thực sự vững chắc, các lĩnh vực xã hội còn phải chi quá nhiều dẫn đến đầu tư cho ngành y tế còn chưa tương xứng mặc dù trong tổng đầu tư cho y tế thì đầu tư phục vụ khám chữa bệnh cho các bệnh viện vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Khả năng thu phí để tái đầu tư mở rộng còn rất hạn chế. Việc xác định các đối tượng nghèo không có khả năng chi trả chi phí khám chữa bệnh để thực hiện các chế độ ưu đãi còn rất khó khăn.


* Nhân tố chính trị

Cùng với sự đổi mới về kinh tế, đất nước ta từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ, ổn định chính trị. Chính sách ngoại giao “chủ động hội nhập” giúp Việt Nam từng bước hội nhập với khu vực và thế giới, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng. Những tiến bộ chính trị này tạo điều kiện thuận lợi cho các bệnh viện hợp tác quốc tế, thu hút nguồn viện trợ nước ngoài cũng như tiếp cận các tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Trong môi trường mở cửa, việc hợp tác với các tổ chức y tế thế giới cũng như nhận các khoản viện trợ không hoàn lại của bệnh viện gặp nhiều thuận lợi và không ngừng tăng.

* Nhân tố pháp lý

Nhà nước đã chú ý đến đầu tư phát triển văn hoá xã hội nhằm từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, cố gắng thực hiện công bằng xã hội. Với chính sách “xã hội hoá, đa dạng hoá” đã tạo điều kiện tăng các nguồn lực để phát triển các mặt xã hội và kết quả bước đầu đã có nét khởi sắc. Chính sách này cho phép các bệnh viện đa dạng hoá việc khai thác các nguồn tài chính phục vụ cho công tác khám chữa bệnh của mình: phát triển thành bệnh viện bán công; xây dựng khoa khám và điều trị tự nguyện…

Cùng với các chính sách mới về kinh tế, xã hội, trong những năm qua Nhà nước đã ban hành một hệ thống các chính sách để củng cố, phát triển hệ thống y tế, nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế đồng thời đảm bảo công bằng và hiệu quả trong công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân nói chung và các chính sách về tài chính áp dụng cho quản lý trong bệnh viện nói riêng. Các chính sách này tạo hành lang pháp lý cho bệnh viện tổ chức thực hiện tốt quản lý tài chính trong đó phải kể đến chính sách viện phí và bảo hiểm y tế.

Trước thời kỳ đổi mới, các bệnh viện được Nhà nước bao cấp hoàn toàn, nhân dân được khám chữa bệnh miễn phí. Bước sang thời kỳ đổi mới,


nguồn NSNN không thể đảm bảo cho công tác chăm sóc sức khoẻ nên vấn đề tài chính cho các bệnh viện càng trở nên bức xúc. Để có thêm nguồn kinh phí cho hoạt động khám chữa bệnh, từ năm 1989, Nhà nước đã ban hành chính sách thu một phần viện phí. Chính sách này đã tăng nguồn ngân sách cho hoạt động của các bệnh viện, góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Viện phí cũng là một chính sách tăng cường sự tham gia đóng góp của cộng đồng nhất là các đối tượng có khả năng chi trả từ đó có thêm nguồn ngân sách để tăng cường khám chữa bệnh cho người nghèo.

Về bảo hiểm y tế, bảo hiểm y tế được triển khai ở Việt Nam từ năm 1993. Trong những năm qua bảo hiểm y tế đã thu được nhiều kết quả khả quan. Song tổng thu bảo hiểm y tế chủ yếu là từ bảo hiểm y tế bắt buộc. Các loại hình bảo hiểm y tế tự nguyện chưa đa dạng, phong phú và chưa thu hút được các đối tượng tham gia.

1.3.2. Nhân tố bên trong

* Nhân tố con người

Con người là nhân tố trung tâm trong hoạt động của một tổ chức. Đặc biệt do đặc thù của bệnh viện là cung cấp các dịch vụ phục vụ cho chăm sóc sức khoẻ con người thì yếu tố con người lại càng quan trọng. Nó đòi hỏi con người phải vừa có trình độ, năng lực tốt, vừa có phẩm chất đạo đức trong sáng, mẫu mực. Một cơ sở KCB có đội ngũ bác sỹ giỏi, có y đức tốt sẽ ngày càng chiếm được lòng tin của người dân. Trong yếu tố con người ở đây cần nhấn mạnh đến cán bộ quản lý. Người làm quản lý có ảnh hưởng trực tiếp đến tính kịp thời, chính xác của các quyết định quản lý. Do vậy, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý nói chung cũng như quản lý tài chính nói riêng.

Một bệnh viện có cán bộ quản lý tài chính có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm, hiểu biết sẽ đưa ra được những biện pháp quản lý


phù hợp, xử lý thông tin kịp thời và chính xác làm cho công tác kế toán tài chính ngày càng có kết quả tốt. Và một đội ngũ cán bộ kế toán tài chính có trình độ nghiệp vụ, có kinh nghiệm, năng động sáng tạo là điều kiện tiền đề để công tác quản lý tài chính đi vào nền nếp, tuân thủ các chế độ quy định của Nhà nước về tài chính góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài chính bệnh viện.

*Cơ sở vật chất và khả năng khai thác cơ sở vật chất trong việc tạo nguồn thu:

Cơ sở vật chất, trang thiết bị KCB là nhân tố rất quan trọng để thu hút người dân đến KCB và chăm lo sức khỏe cho họ. Ngày nay khi hoạt động KCB ngày càng được trang bị những thiết bị hiện đại và hoạt động KCB ngày càng phụ thuộc vào máy móc thì một cơ sở KCB có máy móc hiện đại, có đội ngũ nhân viên sử dụng máy móc tốt là điều kiện thu hút người dân đến KCB. Ngoài ra một cơ sở y tế có quy mô giường bệnh lớn cũng là điều kiện gia tăng người KCB và là cơ sở gia tăng nguồn thu.

* Có mô hình tổ chức hoạt động KCB phù hợp và năng động

Ngày nay do đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện nên nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng. Người dân ngày càng có điều kiện quan tâm đến sức khoẻ, bệnh tật của mình hơn. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao và càng đa dạng của nhân dân cũng như để cạnh tranh với các hình thức cung cấp dịch vụ y tế khác đòi hỏi các bệnh viện phải đầu tư các phương tiện hiện đại, kỹ thuật mới, thuốc mới cũng như đầu tư nâng cao tay nghề của đội ngũ y, bác sỹ. Điều này đặt hoạt động quản lý tài chính bệnh viện trước những thử thách mới. Do vậy, việc xác định mô hình tổ chức phù hợp, nâng cao chất lượng hoạt động sẽ tạo cơ sở cho việc quản lý tài chính bệnh viện được tốt.


* Mối quan hệ giữa cơ sở y tế với bệnh nhân

Trước đây, mối quan hệ này là mối quan hệ của người phục vụ với người được phục vụ theo sự phân công có tổ chức của bộ máy Nhà nước. Mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân không có quan hệ kinh tế, tiền bạc. Trong cơ chế, mối quan hệ giữa bệnh viện và bệnh nhân là mối quan hệ giữa người cung cấp dịch vụ và người trả giá cho các dịch vụ đó. Do vậy, quan hệ tốt với bệnh nhân sẽ tạo được uy tín cho bệnh viện đồng thời cũng giúp cho việc đưa ra chính sách, chiến lược, kế hoạch tác nghiệp và xu hướng phát triển hoạt động bệnh viện trong tương lai.

Cùng với việc xây dựng uy tín trong hoạt động khám chữa bệnh của mình, bệnh viện có thể tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế thông qua các dự án viện trợ không hoàn lại. Hoặc liên doanh, liên kết, mở rộng hợp tác đầu tư trong và ngoài nước.

Ngoài ra các yếu tố khác như quy mô bệnh viện, vị trí địa lý, hệ thống thông tin… cũng có ảnh hưởng đến công tác quản lý tài chính bệnh viện.

1.4. Những bài học kinh nghiệm rút ra trong quản lý tài chính tại bệnh viện 354 – Tổng cục Hậu cần.

- Việc tự chủ về tài chính cần phải được cân nhắc cẩn thận từ lộ trình, thời gian cho phù hợp, tự chủ những nội dung kinh phí nào .v.v.. Bởi vì đặc trưng nhiệm vụ của BV 354 khác các bệnh viện công lập khác của nền kinh tế.

- Để giúp Bệnh viện 354 quản lý tốt tài chính cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa bệnh viện với cơ quan BHXH các cấp từ ký hợp đồng, thanh quyết toán đến giám sát chi phí KCB của bệnh viện.

- Xây dựng chiến lược phát triển BV phải dựa trên chiến lược xây dựng Quân đội, dự báo về công tác chăm sóc sức khỏe và công tác quân y của quân đội, đồng thời có tính đến nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Từ đó có


chiến lược xây dựng BV về quy mô giường bệnh, trang thiết bị, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên môn.

- Các cơ quan quản lý nhà nước về y tế về BHXH cả trong và ngoài quân đội. Cần xây dựng ban hành biểu giá BHYT thống nhất, quy định khung mức phí đối với từng loại dịch vụ và quy trình, thủ tục thanh quyết toán. Giá DVYT cần phải tính đúng tính đủ các chi phí cho hoạt động KCB. Đây là cơ sở quan trọng để Bệnh viện 354 từng bước thực hiện tự chủ tài chính.

- Bộ Quốc phòng cần xây dựng cơ chế quản lý riêng cho các BVQĐ dựa trên các đặc điểm đặc thù của các BVQĐ đồng thời tính đến sự hòa nhập của các BVQĐ trong hệ thống các cơ sở y tế của nền KTQD, vừa bảo đảm yếu tố đây là một đơn vị quân đội đồng thời là một cơ sở KCB như bất kỳ cơ sở KCB nào của quốc gia.

- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản trị, quản lý tài chính của đơn vị.

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 23/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí