các đơn vị cấp dưới; hướng dẫn, kiểm tra việc thu, chi ngân sách và xét duyệt báo cáo quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc”. [20, tr.393].
Điều 20 Nghị định số 10/2004/NĐ-CP ngày 07/01/2004 của Chính phủ quy định, các đơn vị DTNS thuộc Bộ Quốc phòng (BQP) bao gồm:
- BQP là đơn vị dự toán cấp 1, quan hệ trực tiếp với Bộ Tài chính;
- Quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, tổng cục và đơn vị tương đương là đơn vị dự toán cấp 2, quan hệ trực tiếp với đơn vị dự toán cấp 1;
- Sư đoàn và tương đương là đơn vị dự toán cấp 3, quan hệ trực tiếp với đơn vị dự toán cấp 2. Riêng học viện, nhà trường và đơn vị tương đương thuộc BQP là đơn vị dự toán cấp 3, được trực tiếp quan hệ với đơn vị dự toán cấp 1;
- Lữ đoàn và đơn vị tương đương là đơn vị dự toán cấp 4, quan hệ trực tiếp với đơn vị dự toán cấp 3. Riêng lữ đoàn và trung đoàn độc lập là đơn vị dự toán cấp 4, được quan hệ trực tiếp với đơn vị dự toán cấp 2;
- Các đơn vị trực thuộc không có ngân sách (NS) độc lập, là cấp dự toán chỉ tiêu cơ sở; kế toán thực hiện ghi chép việc nhận kinh phí do cấp trên cấp để chi tiêu, thanh quyết toán kinh phí với cấp trên".
Nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị dự toán NSNN nói chung và đơn vị DTQĐ nói riêng được qui định tại Điều 27 Luật NSNN (2002).
Nhiệm vụ chủ yếu gồm: Lập dự toán NSNN; chấp hành và kế toán, quyết toán NSNN; tổ chức quản lý vốn và tài sản, quản lý giá; thực hiện nghiệp vụ về kho bạc, ngân hàng có liên quan; tổ chức thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đối với các tổ chức kinh tế trong QĐ. Trong đó, công tác lập, chấp hành quyết toán ngân sách (QTNS), thanh tra kiểm tra tài chính là những nội dung chủ yếu, có vai trò rất quan trọng trong quản lý ngân sách sử dụng (NSSD).
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý tài chính của Bệnh viện Quân y 354 - Tổng Cục Hậu Cần - 1
- Quản lý tài chính của Bệnh viện Quân y 354 - Tổng Cục Hậu Cần - 2
- Trình Tự Lập Dự Toán Ngân Sách Sử Dụng
- Quản Lý Tài Chính Tại Các Đơn Vị Dự Toán Quân Đội
- Chức Năng, Nhiệm Vụ Và Cơ Cấu Tổ Chức Bộ Máy
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
1.1.2. Quản lý tài chính ở đơn vị dự toán quân đội
1.1.2.1. Nhận thức về quản lý tài chính ở các đơn vị dự toán quân đội
Thuật ngữ “quản lý” được sử dụng khá phổ biến trên mọi lĩnh vực như: quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp, quản lý tài chính... Nhìn chung, có thể hiểu “quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể lên các khách thể nhằm đạt được mục tiêu đã định trước”.
Quản lý tài chính là một bộ phận, một khâu của quản lý kinh tế và là khâu quản lý mang tính tổng hợp. Thực chất của quản lý tài chính (TC) là các chủ thể quản lý sử dụng các phương pháp, các công cụ tác động tới đối tượng quản lý nhằm thực hiện những mục đích nhất định trong lĩnh vực kinh tế- tài chính.
Quản lý TCQĐ là một nội dung quan trọng của quản lý TC, đó là quá trình tổ chức, điều hành, kiểm soát việc thực hiện các chế độ, tiêu chuẩn, định mức theo đúng ngân sách (NS) được duyệt.
Nói cách khác, quản lý TC là tổng thể hoạt động của các chủ thể được xác định theo quy định của pháp luật, thông qua việc sử dụng các phương pháp và công cụ quản lý; được thể hiện từ khâu lập dự toán tài chính (DTTC), chấp hành NS; QTTC, gắn liền với hoạt động kiểm tra, giám sát tài chính, nhằm bảo đảm đúng, đủ, kịp thời và quản lý chặt chẽ các khoản kinh phí thuộc TC, đáp ứng tốt mọi nhiệm vụ được giao và các mặt công tác, đời sống, chính sách.
Hệ thống quản lý TC nói riêng, quản lý tài chính quân đội bao gồm lãnh đạo, chỉ huy các cấp, các cơ quan chuyên môn các tổ chức cá nhân trong đơn vị theo chức trách có vai trò tham mưu và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan tài chính, các ngành nghiệp vụ cùng với sự tham gia dân chủ tích cực của mọi tổ chức, cá nhân trong đơn vị sử dụng NS.
Trong quản lý TC, các chủ thể quản lý có thể sử dụng các phương pháp quản lý và công cụ quản lý khác nhau.
Phương pháp tổ chức được sử dụng trong việc bố trí, sắp xếp các mặt hoạt động nghiệp vụ và thiết lập bộ máy quản lý phù hợp với các mặt hoạt động đó. Đây là sự tập hợp các hoạt động có liên quan của cơ quan TC, cán bộ, quân lực, chính sách, hậu cần, kỹ thuật… thực hiện dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chỉ huy đơn vị nhằm bảo đảm đúng, đủ, kịp thời về kinh phí, NS và quản lý TC chặt chẽ, hiệu quả.
Phương pháp hành chính được sử dụng khi các chủ thể quản lý TC muốn các yêu cầu của mình phải được các khách thể quản lý tuân thủ một cách vô điều kiện. Đó là khi các chủ thể quản lý ra các mệnh lệnh hành chính.
Phương pháp kinh tế được sử dụng thông qua việc dùng lợi ích kinh tế để kích thích tính tích cực của khách thể quản lý, tức là tác động tới các tổ chức, cá nhân thuộc quyền đang tiến hành các hoạt động TC, trong đó có hoạt động quản lý TC.
Hệ thống văn bản pháp quy thuộc lĩnh vực tài chính QĐ được sử dụng để quản lý và điều hành NS được xem như một loại công cụ quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong quản lý NS, công cụ pháp luật được sử dụng thể hiện dưới các dạng cụ thể là các chính sách, cơ chế quản lý TC, chế độ tiêu chuẩn, định mức kinh phí, các chế độ TC, kế toán, thống kê… Cùng với pháp luật, chính sách, hàng loạt các công cụ phổ biến khác được sử dụng trong quản lý TC như: kiểm tra, thanh tra TC, kiểm toán, kiểm soát chi…
Mỗi công cụ trên có đặc điểm khác nhau và được sử dụng theo các cách khác nhau, nhưng đều nhằm mục đích thúc đẩy, nâng cao chất lượng quản lý NS nói riêng, chất lượng, hiệu quả hoạt động của TCQĐ nói chung.
1.1.2.2. Nguyên tắc quản lý tài chính trong đơn vị dự toán quân đội
Quản lý TC dựa trên những nguyên tắc quản lý nhất định; đó là: nguyên tắc quản lý theo dự toán; nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả và nguyên tắc chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước.
* Nguyên tắc quản lý theo dự toán
DTNS là một trong những công cụ có hiệu lực trong quản lý, điều hành NS. Luật NSNN quy định lập DTNS là một chế độ cơ bản của công tác TC ở đơn vị DTNS nhằm xác định nhu cầu để bảo đảm kinh phí thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Lập DTNS là khâu đầu tiên của một chu trình quản lý NSNN. Những khoản chi khi đã được ghi vào dự toán chi được cơ quan có thẩm quyền xét duyệt được coi là chỉ tiêu pháp lệnh. Xét trên góc độ quản lý, số chi được ghi trong DTNS thể hiện sự cam kết của các cơ quan chức năng về quản lý TC nhà nước với các đơn vị thụ hưởng NS. Do đó, nguyên tắc quản lý chi theo dự toán là nguyên tắc mang tính tất yếu khách quan đối với tất cả các đơn vị DTNS.
Sự tôn trọng nguyên tắc quản lý theo dự toán đối với các khoản chi NSSD được nhìn nhận qua các góc độ sau:
Mọi nhu cầu chi dự kiến cho kế hoạch năm sau nhất thiết phải được xác định trong dự toán kinh phí cuối năm trước từ cơ sở, thông qua các bước xét duyệt của các cơ quan có thẩm quyền từ thấp đến cao (quyết định cuối cùng cho dự toán chi NSNN cho lĩnh vực quốc phòng- an ninh (QP-AN) thuộc về Quốc hội). Vì thế, các ngành, các cấp, các đơn vị phải có trách nhiệm chấp hành nghiêm chỉnh các chỉ tiêu thuộc dự toán chi đã được cấp trên phê duyệt cho cấp mình. Mặt khác, DTNS cũng chính là căn cứ chi tiêu, sử dụng kinh phí đúng mục đích, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức và đúng đối tượng sử dụng, các đơn vị thụ hưởng NS phải căn cứ chỉ tiêu DTNS được giao làm cơ sở bảo đảm tài chính trong một năm NS. Toàn bộ nhu cầu tài chính của đơn vị đều được thể hiện trong DTNS đã được giao, do đó, việc lập DTNS chính xác sẽ quyết định đến chất lượng, hiệu quả của quá trình chi tiêu sử dụng kinh phí tại đơn vị. Điều này vô cùng quan trọng do toàn bộ nguồn lực tài chính của các đơn vị DTQĐ chủ yếu từ NSNN cấp.
Trong quá trình tổ chức thực hiện dự toán chi, các đơn vị phải căn cứ vào dự toán kinh phí đã được duyệt mà phân bổ, sử dụng cho các khoản, mục chi và
phải hạch toán theo đúng mục lục NS quy định.
Định kỳ theo chế độ quyết toán kinh phí đã quy định, các đơn vị khi phân tích đánh giá kết quả thực hiện của kỳ báo cáo phải lấy dự toán làm căn cứ để đối chiếu, so sánh. Muốn vậy, dự toán được xác lập theo các chỉ tiêu nào, theo khoản mục nào thì quyết toán chi NS cũng phải được xác lập theo khoản mục chi tiêu đó.
Ngân sách bao gồm các khoản kinh phí về lương, phụ cấp, trợ cấp tiền ăn và kinh phí nghiệp vụ ngành, là những khoản chi rất lớn của NSQP nên trong quá trình quản lý cũng không thể xa rời nguyên tắc quản lý theo dự toán. Dự toán NS ở đơn vị dự toán các cấp được lập theo định kỳ (thường là năm) được thủ trưởng đơn vị cấp trên trực tiếp phê duyệt, phân bổ cho đơn vị cấp dưới trực thuộc. Đây là căn cứ pháp lý bảo đảm cho quá trình quản lý, điều hành, cấp phát, thanh quyết toán kinh phí đúng chế độ tiêu chuẩn, định mức. Đồng thời cũng là căn cứ để kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi chi tiêu ở đơn vị dự toán các cấp.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan TC chủ trì phối hợp chặt chẽ với các ngành nghiệp vụ, các cơ quan chức năng (cán bộ, quân lực, chính sách…) nhằm xây dựng DTNS sát đúng. Trong trường hợp chi cho các nhiệm vụ đột xuất, chưa có trong kế hoạch từ đầu năm hoặc nhà nước thay đổi các chế độ tiền lương… thì đơn vị dự toán các cấp phải lập DTNS bổ sung, trình cấp trên đến BQP để thẩm duyệt.
* Nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả
Tiết kiệm, hiệu quả là một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu của quản lý kinh tế - tài chính, đặc biệt là đối với đơn vị DTNS. Do vậy, trong quá trình quản lý TC luôn phải tính toán sao cho với chi phí ít nhất nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt nhất. Đối với các đơn vị DTQĐ điều này vô cùng quan trọng bởi toàn bộ nguồn lực TC chủ yếu do NSNN cấp. Hiện nay, NSNN bảo đảm cho nhu cầu chi tiêu trong QĐ còn có hạn. Cho nên, việc quản lý chi tiêu tiết kiệm, hiệu quả là nguyên tắc quan trọng trong quản lý TC.
Nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả chỉ có thể được tôn trọng khi quá trình quản lý TC phải thực hiện tốt và đồng bộ một số nội dung cơ bản sau:
- Phải xây dựng được các định mức, tiêu chuẩn chi phí, phù hợp với từng đối tượng hay tính chất công việc, nhiệm vụ, có như vậy các định mức, tiêu chuẩn chi NS mới trở thành căn cứ pháp lý xác đáng phục vụ quá trình quản lý TC.
- Phải thiết lập và lựa chọn hình thức cấp phát phù hợp áp dụng cho mỗi loại hình đơn vị, hay yêu cầu quản lý của từng nhóm mục chi một cách phù hợp.
- Biết lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các loại hoạt động sao cho: Với tổng số chi có hạn, tiết kiệm nhưng vẫn đảm bảo tốt đời sống, chính sách và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trên cơ sở đó mà lựa chọn phương án tối ưu nhất cho cả quá trình lập DTNS, phân bổ và sử dụng kinh phí. Có thể nói, tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt của nguyên tắc có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cho nên, khi xem xét đến vấn đề tiết kiệm các khoản chi NS phải đặt trong sự ràng buộc có tính hiệu quả và ngược lại.
* Nguyên tắc chi trực tiếp qua kho bạc
Kho bạc Nhà nước là cơ quan có chức năng quản lý TC nhằm đảm bảo và kiểm soát quá trình chi tiêu NS đối với tất cả các đơn vị thụ hưởng NSNN, trong đó có các đơn vị DTQĐ. Do đó, việc chi trực tiếp qua kho bạc đối với các đơn vị DTQĐ là yêu cầu bắt buộc và là nguyên tắc quan trọng quản lý TC. Nguyên tắc này được thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau:
- Các khoản chi NS phải được kiểm tra một cách chặt chẽ trước khi được KBNN chấp nhận cấp phát. Tất cả các khoản chi này bắt buộc phải có trong DTNS được giao. Quá trình chi phải đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do Nhà nước, BQP và cơ quan có thẩm quyền quy định và được thủ trưởng đơn vị sử dụng NS hoặc người được ủy quyền quyết định chi.
- Tất cả các đơn vị DTQĐ đều phải mở tài khoản tại KBNN; quá trình lập, phân bổ, cấp phát, thanh toán, hạch toán và QTNS phải chịu sự kiểm tra của KBNN.
- Từng năm NS, các đơn vị dự toán cấp trên trực tiếp phải duyệt DTNS cho các đơn vị dự toán cấp dưới, cho các ngành trực thuộc; đồng thời kiểm tra việc phân bổ và giao DTNS năm cho các đơn vị cấp dưới trực thuộc mình.
- Kho bạc Nhà nước có nhiệm vụ kiểm soát các hồ sơ, chứng từ, các điều kiện chi; thực hiện cấp phát, thanh toán các khoản chi NS kịp thời cho các đơn vị dự toán theo yêu cầu nhiệm vụ và đặc điểm chi NS của các đơn vị QĐ.
Đối với các khoản chi có độ mật cao (như tiền lương, phụ cấp, trợ cấp, tiền ăn, ra quân, mua sắm trang thiết bị kỹ thuật quân sự…), KBNN cấp phát, thanh toán cho đơn vị sử dụng NS, thực hiện kiểm soát lệnh chuẩn chi của thủ trưởng đơn vị thụ hưởng NS; không kiểm soát chế độ tiêu chuẩn, định mức và các chứng từ có liên quan, cả trong trường hợp đơn vị cấp trên cấp kinh phí thuộc NSNN cho các đơn vị dự toán cấp dưới thông qua tài khoản DTNS hoặc tài khoản tiền gửi đơn vị dự toán bằng giấy rút DTNS, séc hoặc Ủy nhiệm chi. Các đơn vị dự toán phải tự tiến hành kiểm soát và chịu trách nhiệm về nội dung của các khoản chi này và thực hiện việc chuẩn chi đúng chế độ tiêu chuẩn, định mức, cơ quan TC đơn vị dự toán các cấp thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát, bảo đảm tất cả các khoản chi NS của đơn vị mình phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện chi NS.
1.1.2.3. Nội dung quản lý tài chính tại đơn vị dự toán quân đội
Nội dung quản lý TC tại các đơn vị dự toán QĐ gắn liền với chu trình quản lý TC - NS, gồm các khâu chủ yếu: lập dự toán NS; chấp hành và quyết toán NS; đồng thời thực hiện kiểm tra, thanh tra TC, kiểm toán.
a, Quản lý lập dự toán NS
Điều hành và quản lý ngân sách là một quá trình bao gồm các khâu lập, chấp hành và QTNS, trong đó lập dự toán ngân sách là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ các khâu của quá trình quản lý ngân sách trong một niên độ nhất định. Dự toán thu, chi ngân sách được lập chính xác, đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn sẽ có tác dụng quan trọng trong việc điều hành và quản lý
ngân sách, là căn cứ để bảo đảm kinh phí cho việc thực hiện các nhiệm vụ được giao trong năm kế hoạch. Quản lý tài chính ở đơn vị dự toán trước hết là quản lý khâu lập DTNS.
Dự toán ngân sách lập ra được cấp có thẩm quyền phê duyệt và giao cho đơn vị là căn cứ pháp lý đảm bảo cho quá trình cấp phát chi tiêu ngân sách đúng đối tượng, đúng tiêu chuẩn, đúng nội dung và thanh quyết toán chính xác. Đồng thời nó cũng là căn cứ để thực hiện kiểm tra, giám đốc tài chính đối với các đơn vị sử dụng ngân sách.
Mặc dù ở đơn vị dự toán QĐ các cấp có những loại NS khác nhau (NSQP thường xuyên; NSNN giao; NSNN đầu tư tập trung…) song khi lập DTNS cần đáp ứng tốt yêu cầu và căn cứ lập DTNS sau đây:
- Yêu cầu đối với dự toán ngân sách
+ Phải thể hiện được toàn bộ nhu cầu chi cho các mặt hoạt động và nguồn thu tại đơn vị.
+ Đúng trọng tâm, trọng điểm, đúng nội dung theo chỉ thị của Bộ và hướng dẫn của Cục Tài chính.
+ Chi tiết theo mục lục ngân sách hiện hành, kèm theo báo cáo thuyết minh cơ sở, căn cứ tính toán từng khoản thu, chi.
+ Không được vượt số dự kiến giao dự toán ngân sách về tổng mức và chi tiết được thông báo.
- Căn cứ lập dự toán ngân sách
Một là, phương hướng, chủ trương, nhiệm vụ xây dựng và phát triển quân đội của Đảng, Nhà nước; chỉ thị, mệnh lệnh của BQP và chỉ huy đơn vị cấp trên trực tiếp; nhiệm vụ, kế hoạch công tác trong năm của đơn vị. Đây là căn cứ quan trọng cho việc lập DTNS nhằm xác định khả năng và nhu cầu; xác định trong tâm, trọng điểm và bố trí thứ tự ưu tiên NS trong DTNS.
Hai là, tổ chức biên chế, trang bị và quân số. Đây vừa là cơ sở để lập dự