- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí lao động và thực hiện các chế độ chính sách đối với công chức, viên chức bệnh viện.
Hệ thống Bệnh viện công lập được chia làm 4 hạng:
- Bệnh viện hạng đặc biệt là cơ sở khám, chữa bệnh trực thuộc Bộ Y tế, với các chuyên khoa đầu ngành được trang bị các thiết bị y tế và các máy móc hiện đại, với đội ngũ cán bộ chuyên khoa có trình độ chuyên môn sâu và có trang bị thích hợp đủ khả năng hỗ trợ cho Bệnh viện hạng I.
- Bệnh viện hạng I là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc Bộ Y tế hoặc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các ngành, có đội ngũ cán bộ chuyên khoa cơ bản có trình độ chuyên môn sâu và có trang bị thích hợp đủ khả năng hỗ trợ cho Bệnh viện hạng II.
- Bệnh viện hạng II là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc khu vực các huyện trong tỉnh và các ngành, có đội ngũ cán bộ chuyên khoa cơ bản có trình độ chuyên môn sâu và có trang bị thích hợp đủ khả năng hỗ trợ cho Bệnh viện hạng III
- Bệnh viện hạng III là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của quận, huyện trực thuộc Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Sau hơn 10 năm thực hiện, đến nay các tiêu chuẩn xếp hạng bệnh viện cần được sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Theo quy định sau 5 năm (đủ 60 tháng), kể từ ngày có quyết định xếp hạng, các cơ quan ra quyết định xếp hạng có trách nhiệm xem xét, xếp lại hạng của đơn vị. Đánh giá này nhằm giúp các Bệnh viện phải luôn nỗ lực đảm bảo các yêu cầu về chuyên môn, cũng như các nhiệm vụ chính trị được giao.
1.2. Quản lý tài chính tại bệnh viện công lập
1.2.1. Khái niệm
Quản lý tài chính bệnh viện theo nghĩa rộng là sự tác động liên tục có hướng đích, có tổ chức của các nhà quản lý bệnh viện lên đối tượng và quá trình hoạt động tài chính của bệnh viện nhằm xác định nguồn thu và các khoản chi, tiến hành thu chi theo đúng pháp luật, đúng các nguyên tắc của Nhà nước về tài chính, đảm bảo kinh phí cho mọi hoạt động của bệnh viện.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý tài chính tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình - 1
- Quản lý tài chính tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình - 2
- Các Công Cụ Quản Lý Tài Chính Bệnh Viện Công Lập
- Văn Hóa Bệnh Viện, Mối Quan Hệ Giữa Bệnh Viện Và Khách Hàng
- Cơ Cấu Tổ Chức Bệnh Viện Hữu Nghị Việt Nam - Cuba Đồng Hới
Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.
Quản lý tài chính trong bệnh viện ở Việt Nam được định nghĩa là việc quản lý toàn bộ các nguồn vốn (vốn do ngân sách của chính phủ cấp, vốn viện trợ, vốn vay và các nguồn vốn khác), tài sản, vật tư của bệnh viện để phục vụ nhiệm vụ khám bệnh, chữa bệnh, đào tạo và nghiên cứu khoa học.
1.2.2. Mục tiêu quản lý tài chính tại bệnh viện công lập
Hiệu quả thực hiện của tài chính kế toán là mục tiêu quan trọng của quản lý tài chính bệnh viện. Các yếu tố của mục tiêu này bao gồm:
- Duy trì cán cân thu chi: đây là điều kiện tiên quyết và bắt buộc của quản lý tài chính bệnh viện và cũng là tiêu chuẩn cho sự thành công trong cơ chế quản lý mới – tiến tới hạch toán chi phí.
- Bệnh viện phải cải thiện chất lượng thông qua một số chỉ tiêu chuyên môn như: tỉ lệ tử vong, …
- Nhân viên hài lòng với bệnh viện: đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện, cải thiện phương tiện làm việc, xây dựng văn hóa Bệnh viện.
- Bệnh viện phát triển cơ sở vật chất, phát triển các chuyên khoa.
- Công bằng y tế: chất lượng phục vụ như nhau cho toàn bộ các đối tượng
- Với bệnh nhân: chất lượng chăm sóc và công bằng y tế
- Với nhân viên: được hài lòng do đời sống được cải thiện.
- Yêu cầu của Ban giám đốc: hoàn thành trách nhiệm thực hiện cán cân thu chi.
- Y tế Nhà nước : phát triển bệnh viện.
1.2.3. Nội dung quản lý tài chính tại bệnh viện công lập
1.2.3.1. Các nguồn thu của bệnh viện công lập
Các nguồn tài chính hình thành ngân sách của bệnh viện và được quản lý thống nhất theo chế độ kế toán hành chính sự nghiệp bao gồm: Ngân sách nhà nước cấp hàng năm; thu viện phí và bảo hiểm y tế, nguồn viện trợ và các nguồn thu khác.
Nguồn ngân sách nhà nước cấp:
Nguồn ngân sách nhà nước cấp là các nguồn đầu tư kinh phí cho bệnh viện thông qua kênh phân bổ của Chính phủ. Bệnh viện chỉ được cấp kinh phí NSNN khi có trong dự toán được duyệt, chi đúng tiêu chuẩn định mức, có đầy đủ hồ sơ chứng
minh việc chi tiêu của bệnh viện. Theo đó, ngân sách cho bệnh viện có thể bao gồm chi sự nghiệp và đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN, chi từ bảo hiểm y tế, thu viện phí và viện trợ nước ngoài. Tuy nhiên nguồn NSNN cấp cho bệnh viện ở đây được định nghĩa là khoản chi cho bệnh viện từ NSNN cấp cho sự nghiệp y tế cân đối từ nguồn thuế trực thu và thuế gián thu.
Nguồn thu viện phí và bảo hiểm y tế:
Nguồn thu viện phí và bảo hiểm y tế được Nhà nước quy định là một phần ngân sách sự nghiệp y tế của Nhà nước giao cho bệnh viện quản lý và sử dụng. Giá viện phí do giám đốc bệnh viện đề xuất, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của địa phương và phải dựa trên một khung giá tối đa- tối thiểu đã được Bộ Y tế và Bộ Tài chính phê duyệt. Bảng giá phải được niêm yết công khai. Việc thu viện phí trực tiếp của người bệnh phải sử dụng hoá đơn theo mẫu quy định của Bộ Tài chính, một liên của hoá đơn phải trả cho người bệnh. Đối với người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế thì cơ quan bảo hiểm thanh toán viện phí của bệnh nhân cho bệnh viện và phòng tài chính kế toán có trách nhiệm thu viện phí từ cơ quan bảo hiểm y tế. Giám đốc bệnh viện hoặc người được uỷ quyền chịu trách nhiệm xét miễn, giảm viện phí cho người bệnh theo chế độ quy định.
Nguồn viện trợ và các nguồn thu khác:
Nguồn viện trợ và các nguồn thu khác được Nhà nước quy định là một phần ngân sách sự nghiệp y tế của Nhà nước giao cho bệnh viện quản lý và sử dụng được hạch toán theo chế độ kế toán hành chính sự nghiệp. Khi bệnh viện tiếp nhận tiền, hàng viện trợ phải làm các thủ tục xác nhận viện trợ theo quy định và phải sử dụng theo đúng mục đích từ phía nhà tài trợ. Các loại tài sản được viện trợ phải hạch toán tăng nguồn vốn và quản lý theo quy định như các tài sản được mua bằng nguồn vốn sự nghiệp do Nhà nước cấp.
Nguồn thu từ khoản tiền đầu tư, thông qua các hoạt động liên doanh, liên kết để mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động dịch vụ của bệnh viện, đây chính là một cơ chế mở tháo gỡ các khó khăn vướng mắc về góp vốn đầu tư, huy động các nguồn lực tài chính trong cộng đồng và xã hội nhằm chăm sóc sức khỏe cho con người.
Các nguồn thu từ dịch vụ y tế nhằm phục vụ bệnh nhân như:
- Dịch vụ vận chuyển bệnh nhân.
- Dịch vụ liên kết trong hoạt động chuyên môn.
- Dịch vụ cho người cao tuổi.
- Dịch vụ các phòng điều trị có chất lượng cao.
- Dịch vụ khám sức khoẻ định kỳ cho các đơn vị cơ quan, xí nghiệp, trường học
- Dịch vụ ăn uống
1.2.3.2. Các khoản chi của bệnh viện công lập
Các khoản chi trong bệnh viện: Trong bệnh viện các khoản chi được chia thành hai loại: các khoản chi hoạt động thường xuyên và các khoản chi hoạt động không thường xuyên.
Chi hoạt động thường xuyên: Là các khoản chi thực hiện nhiệm vụ thường xuyên như sau:
- Chi tiền lương: Đơn vị chi trả tiền lương theo lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với đơn vị sự nghiệp công. Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương, đơn vị tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ các nguồn theo quy định; trường hợp còn thiếu, ngân sách nhà nước cấp bổ sung;
- Chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý: Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, đơn vị được quyết định mức chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý, nhưng tối đa không vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và được quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. Đối với các nội dung chưa có định mức chi theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Căn cứ tình hình thực tế, đơn vị xây dựng mức chi cho phù hợp theo quy chế chi tiêu nội bộ và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Chi hoạt động không thường xuyên: Đơn vị chi theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và pháp luật hiện hành đối với từng nguồn kinh phí quy định tại Nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí được để lại chi theo quy định (phần được để lại chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác thu phí), Nguồn Ngân sách nhà nước cấp kinh phí thực hiện các nhiệm vụ không
thường xuyên (nếu có), gồm: Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không phải là tổ chức khoa học công nghệ); kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia; chương trình, dự án, đề án khác; kinh phí đối ứng thực hiện các dự án theo quyết định của cấp có thẩm quyền; vốn đầu tư phát triển; kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt; kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cơ quan có thẩm quyền giao; và Nguồn viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật
1.2.4. Quy trình quản lý tài chính tại bệnh viện công lập
1.2.4.1. Lập dự toán thu chi
Lập dự toán thu chi các nguồn kinh phí của bệnh viện là thông qua các nghiệp vụ tài chính để cụ thể hóa định hướng phát triển, kế hoạch hoạt động ngắn hạn của bệnh viện, trên cơ sở tăng nguồn thu hợp pháp và vững chắc, đảm bảo được hoạt động thường xuyên của bệnh viện, đồng thời từng bước củng cố và nâng cấp cơ sở vật chất của bệnh viện, tập trung đầu tư đúng mục tiêu ưu tiên nhằm đạt hiệu quả cao, hạn chế tối đa lãng phí và tiêu cực, từng bước tính công bằng trong sử dụng các nguồn đầu tư cho bệnh viện
Các căn cứ khi lập dự toán thu chi của bệnh viện:
- Phương hướng nhiệm vụ của đơn vị
- Chỉ tiêu, kế hoạch có thể thực hiện được
- Kinh nghiệm thực hiện các năm trước
- Khả năng ngân sách nhà nước cho phép
- Khả năng cấp vật tư của Nhà nước và của thị trường
- Khả năng tổ chức quản lý và kỹ thuật của đơn vị
1.2.4.2. Thực hiện dự toán thu chi
Thực hiện dự toán là quá trình sử dụng tổng hoà các biện pháp kinh tế tài chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu đã được ghi trong kế hoạch thành hiện thực. Thực hiện dự toán đúng đắn là tiền đề quan trọng để thực hiện các chỉ tiêu phát triển bệnh viện. Tổ chức thực hiện dự toán là nhiệm vụ của tất cả các phòng, ban, các bộ phận trong đơn vị. Do đó đây là một nội dung được đặc biệt quan trọng
trong công tác quản lý tài chính của bệnh viện. Việc thực hiện dự toán diễn ra trong một niên độ ngân sách, thường bắt đầu từ ngày 01/01 đến 31/12 hàng năm.
Căn cứ thực hiện dự toán
- Dự toán thu chi ( kế hoạch) của bệnh viện đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đây là căn cứ mang tính chất quyết định nhất trong chấp hành dự toán của bệnh viện. Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, cùng với việc tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật, một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý tài chính ngày càng được hoàn thiện. Việc chấp hành dự toán thu chi ngày càng được luật hoá, tạo điều kiện cho đơn vị chủ động thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Khả năng nguồn tài chính có thể đáp ứng nhu cầu hoạt động của bệnh viện.
- Chính sách, chế độ chi tiêu và quản lý tài chính hiện hành của Nhà nước.
Yêu cầu của công tác thực hiện dự toán
- Đảm bảo phân phối, cấp phát, sử dụng nguồn kinh phí một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả.
- Đảm bảo giải quyết linh hoạt về kinh phí. Do sự hạn hẹp của nguồn kinh phí và những hạn chế về khả năng dự toán nên giữa thực tế diễn ra trong quá trình chấp hành và dự toán có thể có những khoảng cách nhất định đòi hỏi phải có sự linh hoạt trong quản lý. Nguyên tắc chung là chi theo dự toán nhưng nếu không có dự toán mà cần chi thì có quyết định kịp thời, đồng thời có thứ tự ưu tiên việc gì trước, việc gì sau
- Sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt dự toán và nhận được thông báo cấp vốn hạn mức, đơn vị chủ động sử dụng để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
- Tổ chức thực hiện thu nhận các nguồn tài chính theo kế hoạch và theo quyền hạn.
- Tổ chức thực hiện các khoản chi theo chế độ, tiêu chuẩn và định mức theo do Nhà nước quy định trên cơ sở đánh giá hiệu quả, chất lượng công việc.
1.2.4.3. Công tác quyết toán
Công tác quyết toán là khâu cuối cùng của quá trình xác định chính thức nguồn thu sự nghiệp. Đây là quá trình phản ánh đầy đủ các khoản thu vào báo cáo theo đúng quy định về biểu mẫu, thời gian, nội dung các khoản thu. Trên cơ sở các số liệu báo cáo
quyết toán có thể đánh giá hiệu quả phục vụ của chính bệnh viện, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch đồng thời rút ra ưu, khuyết điểm của từng bộ phận trong quá trình quản lý khai thác các nguồn thu dịch vụ để làm cơ sở cho việc quản lý ở chu kỳ tiếp theo, đặc biệt là làm cơ sở cho việc lập kế hoạch dự toán thu hoạt động sự nghiệp của bệnh viện cho các năm tới. Muốn công tác quyết toán được tốt cần phải:
- Tổ chức bộ máy kế toán thu theo quy định nhưng đảm bảo tinh giản, gọn nhẹ, linh hoạt, hiệu quả và khoa học, giảm tối đa các quy trình và chi phí không cần thiết, tuyệt đối tránh gây phiền hà cho người bệnh
- Mở sổ sách theo dõi đầy đủ và đúng quy định.
- Ghi chép cập nhật số liệu theo ngày, phản ánh kịp thời và chính xác.
- Thường xuyên tổ chức đối chiếu, kiểm tra.
- Cuối kỳ báo cáo theo mẫu biểu thống nhất và xử lý những trường hợp trái với chế độ để tránh tình trạng sai sót.
- Thực hiện báo cáo quý sau 15 ngày và báo cáo năm sau 45 ngày theo quy định của Nhà nước.
1.2.4.4. Thanh tra, kiểm tra, đánh giá
Thanh tra, kiểm tra tài chính trong quản lý bệnh viện là quá trình giám sát, đo lường, đánh giá việc thực hiện và kết quả thực hiện các hoạt động tài chính, từ đó đưa ra các biện pháp điều chỉnh (nếu cần thiết) nhằm đảm bảo để hoạch tài chính của bệnh viện được thực hiện đứng như dự kiến. Thanh tra, kiểm tra tài chính là nội dung tất yếu của quá trình quản lý tài chính, bởi vì quá trình thực hiện kế hoạch thu chi, do các lý do khách quan và chủ quan, không phải bao giờ cũng đúng như dự kiến.
Mục đích của giám sát, thanh tra, kiểm tra và đánh giá
- Tuấn thủ thực hiện thu chi so với kế hoạch
- Phát hiện những vấn đề nảy sinh, các khác biệt giữa kế hoạch ngân sách và thực hiện kế hoạch
- Điều chỉnh kế hoạch và ngân sách cho phù hợp
- Nâng cao hiệu quả kinh tế
- Làm tiền đề cho kế hoạch trong tương lai
Công cụ giám sát, thanh tra, kiểm tra và đánh giá
- Công tác kế toán và sổ sách kế toán
- Kế hoạch ngân sách và chi tiêu thực tế
- Sổ theo dõi quỹ tiền mặt
- Bảng theo dõi thu, chi tài chính kế toán
- Sổ sách theo dõi tài sản cố định và tài sản khác, kho…
- Bảng cân đối tài khoản
Trong kiểm tra tài chính, công tác đánh giá là không thể thiếu. Đánh giá việc thực hiện kế hoạch tài chính giúp nhà quản lý thấy rõ kế hoạch đang được thực hiên đến mức độ nào, liệu có hoàn thành kế hoạch hay không, nguyên nhân, từ đó có biện pháp động viên hay sửa chữa cũng như rút kinh nghiệm quản lý. Trong hoạt động đánh giá thì nội dung đầu tiên là xác định hệ thống tiêu chí và chỉ số đánh giá. Tuy nhiên các tiêu chí đánh giá quản lý tài chính hiện nay chưa thống nhất và còn nhiều ý kiến trái chiều; đối với các bệnh viện công lập lại càng khó do đặc thù của nó là gắn bó giữa mục tiêu hiệu quả kinh tế và tài chính với mục tiêu công bằng trong cung cấp dịch vụ y tế cho nhân dân. Hướng đến thự hiện đồng thời cả mục tiêu hiệu quả tài chính và mục tiêu công bằng, hiện nay, người ta thường dùng một số tiêu chí đánh giá hoạt động tài chính của bệnh viện sau đây [17]:
- Mức độ cân đối tài chính: tổng số thu và chi tiêu hàng năm, cơ cấu các nguồn thu và sử dụng các nguồn thu
- Hiệu quả các hoạt động (khám chữa bệnh, nghiên cứu khoa học): so sánh kết quả thực tế với chi phí đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó
- Chất lượng chuyên môn: kinh phí đầu tư nang cấp cơ sở vật chất kĩ thuật, công nghệ, phương pháp điều trị, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ nhân lực của bệnh viện.
- Hạch toán chi phí bệnh viện: liên quan đến chi phí kế koán và chi phí y tế
- Quy mô của bệnh viện: số chuyên khoa, số giường bệnh, số nhân viên y tế, mức độ tiếp cận các dịch vụ của nhân dân trên địa bàn.