nước ngoài. Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam có vốn tự có từ hai mươi lăm triệu đô la Mỹ trở xuống được phép áp dụng mức giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ là tổng trạng thái ngoại tệ cuối ngày quy ra đô la Mỹ không được vượt quá năm triệu đô la Mỹ. Nếu trạng thái ròng của ngoại tệ lớn hơn 0, thì ta gọi là trạng thái trường, hay trạng thái dương; còn nếu nhỏ hơn 0 thì gọi là trạng thái đoản hay trạng thái âm. Rõ ràng là, để tránh được rủi ro ngoại hối đối với một ngoại tệ nhất định, tức để cho ngoại tệ này có trạng thái ròng bằng 0, thì Ngân hàng có thể tiến hành theo hai cách: Thứ nhất, đồng thời làm cân xứng giữa doanh số mua vào và doanh số bán ra được ghi nhận ở ngoại bảng và cân xứng giữa số dư tài sản có và số dư tài sản nợ đối với ngoại tệ này được ghi trong nội bảng; Thứ hai, làm cho trạng thái nội bảng và ngoại bảng ngược dấu với nhau. Về mặt logic, chúng ta cũng thấy rằng, để một Ngân hàng tránh được hoàn toàn rủi ro ngoại hối thì Ngân hàng này phải có trạng thái bằng 0 đối với tất cả các ngoại tệ, nhưng lúc đó lợi nhuận cho các giao dịch này cũng gần như không có.
Như trên đã trình bày, chúng ta có thể lượng hóa được quy mô tiềm ẩn rủi ro ngoại hối bằng cách xác định trạng thái ròng nội bảng và ngoại bảng đối với từng ngoại tệ. Tuy nhiên, mức rủi ro đối với trạng thái của một ngoại tệ còn phụ thuộc vào mức độ biến động của tỷ giá. Chúng ta có thể viết:
Lãi/lỗ đối với ngoại tệ (i) = Trạng thái ngoại hối ròng ngoại tệ (i) x
Mức biến động tỷ giá của ngoại tệ (i)
(Trong đó: i là một loại ngoại tệ)
Ví dụ, một Ngân hàng có trạng thái ngoại hối trường ròng là 100 triệu USD và giả sử rằng sau một tuần tỷ giá giao ngay VND/USD tăng từ 1 USD = 20.520 VND lên 1 USD = 20.535 VND.
Gọi St-1 là tỷ giá của USD trước khi thay đổi, tức là: St-1 = 20.520
Gọi St là tỷ giá của USD sau khi thay đổi, tức là: St = 20.535
Ta tính được tỷ lệ % thay đổi tỷ giá (% thay đổi giá trị của USD):
Có thể bạn quan tâm!
- Xu Hướng Phát Triển Của Thị Trường Ngoại Hối Trên Thế Giới
- Các Nhân Tố Tác Động Đến Rủi Ro Trong Kinh Doanh Ngoại Hối Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Các Nhân Tố Riêng Tác Động Đến Rủi Ro Trong Kinh Doanh Ngoại Hối
- Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM - Trường ĐH Ngân hàng - 8
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Rủi Ro Trong Kinh Doanh Ngoại Hối Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Bài Học Thứ Hai Về Quản Lý Rủi Ro Trong Kinh Doanh Ngoại Tệ Cho Các Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 250 trang tài liệu này.
St St 1 100% 20.535 20.520100% 0,10%
St 1
20.520
Do USD có trạng thái trường, mà USD lại tăng giá nên Ngân hàng thu được lãi hối đoái quy VND là:
100 x (20.535 - 20.520) = 1.500 triệu VND
Rõ ràng là, nếu Ngân hàng duy trì một trạng thái ngoại hối ròng với bất cứ ngoại tệ nào thì khi tỷ giá của đồng tiền này biến động càng lớn thì khả năng thu được lợi nhuận (hay lỗ) cũng càng lớn.
1.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐO LƯỜNG RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Các tiêu chí định lượng
1.3.1.1. Phương pháp đo lường VaR
Một trong những phương pháp đo lường rủi ro trong hoạt động KDNH tại các NHTM phổ biến nhất hiện nay là sử dụng mô hình VaR. Mô hình sẽ được phân tích chi tiết trong mục 1.4.2.3 của chương 1 Luận án này.
Mô hình này không những nêu ra các tiêu chí để đo lường về rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ gồm USD và bảy loại ngoại tệ mạnh khác đã được nêu trong phạm vi nghiên cứu cũng như hoạt động kinh doanh vàng theo công thức chung bên dưới: (các yếu tố trong công thức này sẽ được giải thích trong mục 1.4.2.3)
Với việc sử dụng mô hình VaR, các nhà kinh doanh và quản trị ngân hàng xác định được một con số cụ thể về mức độ rủi ro của danh mục ngoại hối mà ngân hàng đang nắm giữ. Từ đó, các nhà quản trị ngân hàng xác định được mức độ rủi ro này có nằm trong phạm vi tổn thất cho phép của các lãnh đạo cao hơn trong ngân hàng hay không. Phương pháp này có thể được thực hiện trước, trong hay sau khi các dealer thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, việc thực hiện tính toán VaR trước khi thực hiện giao dịch ngoại hối sẽ tốt hơn cho việc quản trị ngân hàng.
1.3.1.2. Phương pháp đo lường trạng thái ngoại tệ
Đây cũng là một trong những phương pháp đo lường định lượng phổ biến hiện nay trên thế giới về mức độ rủi ro của các giao dịch ngoại hối mà ngân hàng thực hiện. Các tiêu chí của công thức này được trình bày chi tiết trong Mục 1.2.2 của Luận án này.
Lãi/lỗ đối với ngoại hối (i) = Trạng thái ngoại hối ròng (i) x
Mức biến động tỷ giá của ngoại tệ (i) hay giá vàng
Mức độ chính xác của việc sử dụng phương pháp này phụ thuộc rất lớn vào việc dự đoán mức độ biến động của tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng. Kết quả của công thức này là một con số cụ thể thể hiện mức độ rủi ro của hoạt động kinh doanh vàng hay ngoại tệ của ngân hàng.
1.3.2. Các tiêu chí định tính
Các chỉ tiêu này bao gồm: mức độ sử dụng các công cụ phái sinh (mục 1.4.2.3), sử dụng các kỷ thuật dự đoán tỷ giá, hạn mức (mục 1.4.2.3), tình hình kinh tế - chính trị - xã hội trong và ngoài nước (mục 1.2.1), các chính sách của Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền (mục 1.2.1), v.v…
Mức độ thường xuyên sử dụng các công cụ trên trong việc phòng ngừa rủi ro trong hoạt động KDNH hay diễn biến tình hình trong và ngoài nước quyết định quan trọng đến mức độ rủi ro của KDNH tại các NHTM hiện nay. Do đó, việc ý thức được các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh của các cấp lãnh đạo ngân hàng có tầm ảnh hưởng lớn đến rủi ro xảy ra là cao hay thấp đến kết quả lợi nhuận của ngân hàng; đồng thời việc phân tích và dự báo tình hình trong và ngoài nước cũng chi phối đến mức độ rủi ro trong hoạt động KDNH của ngân hàng.
1.4. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.4.1. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại
Về bản chất, KDNH tự nó chứa đựng rủi ro rất cao. Ngoài các rủi ro thông thường mà các hoạt động khác cũng phải đối mặt như: rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro kỹ thuật, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý và rủi ro quốc gia, thì KDNH còn chịu thêm một rủi ro đặc biệt, đó là rủi ro về tỷ giá ngoại tệ và giá vàng. Do tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động thường xuyên và bất thường, nên rủi ro tỷ giá ngoại tệ và giá vàng được xem là rủi ro thường trực, gắn liền và trở thành rủi ro đặc trưng của hoạt động KDNH của các ngân hàng.
Theo tác giả, rủi ro ngoại hối là rủi ro phát sinh do sự biến động của tỷ giá ngoại tệ và giá vàng làm ảnh hưởng xấu đến giá trị kỳ vọng trong tương lai. Có hai nguyên nhân chính gây nên rủi ro tỷ giá ngoại tệ và giá vàng: (1) các ngân hàng giao dịch các đồng tiền nước ngoài, vàng nhằm phục vụ cho khách hàng và cho chính ngân hàng mình; (2) các ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng các ngoại tệ. Cả hai nguyên nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại hối ròng (trường hoặc đoản) trong mua bán ngoại hối và trong cơ cấu tài sản bằng ngoại tệ. Nếu tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối sẽ càng lớn.
Các nguyên nhân làm cho tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động gây nên rủi ro trong KDNH tại các NHTM đã được trình bày và phân tích chi tiết ở mục 1.2 của Luận án này.
1.4.2. Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại
1.4.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối của NHTM
Để kinh doanh ngoại tệ có lãi thì các NHTM phải tạo trạng thái ngoại hối mở và tỷ giá phải biến động. Muốn tránh hoàn toàn rủi ro tỷ giá thì nhà kinh doanh chỉ việc không tiến hành bất kỳ giao dịch ngoại hối nào hoặc nếu đã tạo trạng thái ngoại
hối thì tiến hành đóng trạng thái ngoại hối bằng các giao dịch đối ứng để làm cân bằng trạng thái. Tuy nhiên, là Dealer thì việc tạo trạng thái ngoại hối và hy vọng tỷ giá biến động theo chiều hướng có lợi là công việc hằng ngày của anh ta. Do đó, tỷ giá luôn biến động thất thường và không giới hạn làm cho cơ hội kiếm lãi trở nên thường xuyên và vô cùng hấp dẫn. Tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn rủi ro trong KDNH là đồng hành với nhau. Lãi lỗ trong KDNH có thể phát sinh cùng với quy mô biến động tỷ giá, trong khi tỷ giá biến động là không giới hạn nên có thể làm cho lãi lỗ phát sinh là rất lớn. Điều này buộc ngân hàng phải có một cơ chế quản lý và giám sát hoạt động kinh doanh ngoại tệ và vàng một cách chặt chẽ.
Rủi ro KDNH là một yếu tố khách quan, ngân hàng không thể loại trừ được tất cả mọi rủi ro có thể xảy ra khi tham gia giao dịch KDNH, mà ngân hàng chỉ có thể đưa ra các biện pháp và công cụ nhằm hạn chế sự xuất hiện của rủi ro.
Cho nên, theo tác giả, quản lý rủi ro KDNH tại ngân hàng là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất do rủi ro gây ra. Quy trình quản lý rủi ro thông thường gồm năm bước: nhận dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo lường rủi ro, kiểm soát, phòng ngừa rủi ro và tài trợ rủi ro.
1.4.2.2. Vai trò của quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối đối với NHTM
Một hệ thống quản lý rủi ro được tổ chức tốt và vận hành hiệu quả sẽ giúp các Ngân hàng đứng vững và vượt qua những biến động lớn trong các giai đoạn khó khăn.
Theo như phân tích ở mục 1.2 của Luận án này, các nhân tố gây nên rủi ro đối với hoạt động KDNH của các Ngân hàng là luôn hiện hữu, cho nên hoạt động quản trị rủi ro KDNH của các NHTM là một nội dung quan trọng và luôn cần thiết mà các cấp lãnh đạo và điều hành ngân hàng cần đặc biệt quan tâm.
Quản trị rủi ro KDNH tốt giúp góp phần làm giảm thiểu chi phí hoạt động và hạn chế tổn thất cho các ngân hàng, từ đó sẽ giúp tối đa hóa lợi nhuận và giá trị cho cổ đông của ngân hàng.
Quản lý rủi ro KDNH hiệu quả góp phần tạo điều kiện làm lành mạnh tình hình tài chính, ngăn ngừa nguy cơ phá sản và gia tăng uy tín cho các NHTM. Qua đó, các NHTM góp phần tăng lòng tin nơi khách hàng và các đối tác trong và ngoài nước; đồng thời thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế ổn định và bền vững cho đất nước.
Quản lý rủi ro KDNH tốt giúp phát hiện kịp thời những nguyên nhân có thể gây nên rủi ro cho hoạt động KDNH, từ đó ngân hàng có những giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro thích hợp.
Quá trình này giúp xây dựng hình ảnh tốt đẹp cho ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các quy định trong nước và các chuẩn mực quốc tế.
Hệ thống quản lý rủi ro KDNH hiệu quả giúp các NHTM có được các nhân tố tích cực sau trong quá trình hoạt động của ngân hàng như có sự giám sát và quản lý tích cực của Hội đồng quản trị và Ban điều hành; ban hành và triển khai đầy đủ các chính sách, quy trình quản lý rủi ro và các giới hạn rủi ro; thiết lập hệ thống thông tin quản lý rủi ro phù hợp; và thiết lập được hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ hoạt động phù hợp.
Ngoài ra, việc thực hiện quản lý rủi ro KDNH một cách nghiêm túc giúp ngân hàng đảm bảo rằng vốn pháp định của ngân hàng không bị suy giảm và khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng đủ bù đắp tất cả các rủi ro mà có thể dẫn đến tổn thất cho ngân hàng tại mọi thời điểm. Bộ phận kiểm soát rủi ro thực hiện việc theo dõi, đo lường tất cả các rủi ro của ngân hàng và đánh giá mức độ đầy đủ của khả năng chịu đựng rủi ro. Nếu khả năng chịu đựng rủi ro là không đảm bảo, ngân hàng sẽ có các biện pháp xử lý kịp thời.
1.4.2.3. Các phương pháp quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối tại ngân hàng thương mại
Trên thế giới, các Ngân hàng thường sử dụng các phương pháp sau đây để quản lý rủi ro trong hoạt động KDNH của Ngân hàng:
Sử dụng các giới hạn trạng thái ngoại hối giao dịch qua đêm
Hạn mức (position limits) là giới hạn trạng thái ngoại hối tối đa mà mỗi nhóm, cá nhân KDNH được phép thực hiện. Tùy theo kinh nghiệm, trình độ, mục đích kinh doanh, năng lực tài chính và trang thiết bị mà hạn mức giữa các tổ chức, giữa các nhân viên kinh doanh là không giống nhau. Việc quản lý hạn mức kinh doanh tại một NHTM có thể căn cứ vào một số tiêu chí như sau:
Hạn mức chung cho cả phòng kinh doanh, trên cơ sở đó phân bổ hạn mức cho từng nhà kinh doanh cụ thể. Nguyên tắc phân bổ hạn mức cho từng nhà kinh doanh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thâm niên và năng lực kinh doanh trên thị trường ngoại hối. Những nhà kinh doanh chuyên nghiệp, có thâm niên, đã gặt hái được nhiều thành công thường là những nhà kinh doanh chính (chief dealer) được giao hạn mức cao hơn rất nhiều so với những nhân viên kinh doanh vừa vào nghề.
Hạn mức theo các đồng tiền kinh doanh: Ngoài việc quy định tổng hạn mức chung, đối với những nhóm và cá nhân kinh doanh liên quan đến nhiều đồng tiền, thì việc quy định hạn mức kinh doanh đối với mỗi đồng tiền là cần thiết. Những đồng tiền ít biến động thì hạn mức có thể cao, còn những đồng tiền biến động mạnh thì hạn mức thấp hơn.
Hạn mức cho các loại nghiệp vụ cụ thể, ví dụ hạn mức cho từng nghiệp vụ giao ngay, kỳ hạn, tương lai, hoán đổi và quyền chọn. Phương pháp quản lý và đánh giá đối với một số trạng thái chính như sau:
Trạng thái giao ngay:
Do đặc thù của thị trường giao ngay là chịu sự tác động bởi các yếu tố ngắn hạn lên tỷ giá. Những tin đồn, những cuộc giao dịch lớn, can thiệp của NHTW, những biến cố bất ngờ xảy ra,... đều có thể ảnh hưởng nhanh chóng và mạnh mẽ lên sự biến động tỷ giá. Những biến động đến ngạc nhiên của tỷ giá chỉ diễn ra trong vài phút, do đó, nhà kinh doanh phải nhanh chóng và thường xuyên thay đổi trạng thái kinh doanh để chớp cơ hội kiếm lãi hoặc thoát khỏi rủi ro.
Tại bất kỳ thời điểm nào, nếu nhà kinh doanh duy trì trạng thái giao ngay (trạng thái mở) đều phải chịu rủi ro tỷ giá. Tỷ giá biến động càng mạnh thì rủi ro càng lớn. Để quản lý tiềm năng thu lãi và tiềm ẩn lỗ vốn, người ta sử dụng kỹ thuật định giá cuối mỗi ngày giao dịch. Căn cứ vào trạng thái cuối ngày, từng nhà kinh doanh phải định giá kết quả kinh doanh của chính mình theo tỷ giá đóng cửa của ngày giao dịch. Kết quả này phải được báo cáo cho nhà kinh doanh chính và lãnh đạo phòng KDNH.
Trạng thái kỳ hạn
Trên thị trường liên Ngân hàng, các giao dịch kỳ hạn thường thuộc loại Spot
- Forward Swap, nghĩa là mỗi giao dịch gồm hai vế là: vế giao ngay áp dụng tỷ giá giao ngay, còn vế kỳ hạn áp dụng tỷ giá kỳ hạn, và hai vế có ngày giá trị khác nhau. Do đó, trạng thái ròng của giao dịch kỳ hạn phụ thuộc vào độ lệch giữa tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay. Tỷ giá kỳ hạn được hình thành trên cơ sở chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền. Trong điều kiện bình thường, các mức lãi suất tiền tệ là ổn định, làm cho các điểm kỳ hạn biến động cũng ít. Lãi suất không tăng lên nhanh chóng rồi sau đó lại giảm xuống nhanh chóng giống như tỷ giá giao ngay. Do đó, nếu nhà kinh doanh dự tính sai lầm về hướng biến động của lãi suất, thì ít có cơ hội để khắc phục thua lỗ nặng nề trong tương lai. Kinh doanh kỳ hạn không thể có tốc độ nhanh như kinh doanh giao ngay. Nhà kinh doanh kỳ hạn không thể thay đổi thường xuyên trạng thái kỳ hạn, mà nó thường được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
Cũng giống như giao ngay, trạng thái kỳ hạn ròng cuối ngày cũng có thể trường hoặc đoản, bao gồm các trạng thái của tất cả các hợp đồng còn hiệu lực và có các ngày giá trị khác nhau. Việc định giá kết quả kinh doanh kỳ hạn hằng ngày được tính theo phương pháp giả định rằng tất cả các hợp đồng kỳ hạn còn hiệu lực đều được thanh lý ngay lập tức theo tỷ giá kỳ hạn cuối ngày hôm đó áp dụng tương ứng cho từng kỳ hạn.