Các Nhân Tố Riêng Tác Động Đến Rủi Ro Trong Kinh Doanh Ngoại Hối


đồng tiền của nước đó giảm giá và ngược lại. Như vậy, yếu tố chênh lệch lạm phát chỉ có ảnh hưởng đến biến động của tỷ giá trong dài hạn. Việc nghiên cứu yếu tố này để làm cơ sở dự đoán biến động của tỷ giá trong ngắn hạn sẽ đem lại kết quả không đáng tin cậy.

Một nền kinh tế sẽ vận hành tốt và hiệu quả hơn khi xét về tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế, về việc làm, và về cải thiện đời sống nhân dân, nếu tỷ lệ lạm phát thấp và được duy trì ổn định ở mức đó. Bởi vì, kỳ vọng lạm phát sẽ khiến hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế trở nên không ổn định. Có thể nói, mọi động thái bất thường và bất hợp lý của chỉ số lạm phát đều để lại những hiệu quả tiêu cực cho nền kinh tế, tạo ra nhiều rủi ro cho các hoạt động trên thị trường ngoại hối. Lạm phát đồng nghĩa với đồng tiền giảm giá trị là những tin tức tiêu cực đối với hầu hết người dân, các tổ chức kinh tế. Lạm phát bóp méo giá cả, giảm độ tin cậy vào đồng tiền của Quốc gia đó, tăng cầu về ngoại tệ (đặc biệt là USD), không khuyến khích đầu tư, đầu tư vào vàng, hạn chế tăng trưởng kinh tế và tới cực điểm nó có thể gây ra những bất ổn về mặt xã hội và chính trị.

Cho nên, lạm phát tại một Quốc gia tạo ra tỷ giá của USD hay một ngoại tệ khác với đồng tiền của Quốc gia đó thường có xu hướng tăng và nhu cầu đầu tư vào vàng nhằm làm nơi trú ẩn an toàn ngày càng tăng cao và làm cho giá vàng trong nước thường cao hơn giá vàng thế giới. Từ đó, những biến động trên dễ tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động KDNH của các NHTM, đặc biệt đối với một nền kinh tế chưa liên thông đầy đủ với các nền kinh tế trên thế giới như tại Việt nam.

Thâm hụt cán cân thương mại

Nhập siêu hay tình trạng thâm hụt cán cân thương mại là sự mất cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu trong điều kiện nhập khẩu vượt quá xuất khẩu. Nếu tình trạng này duy trì trong dài hạn và vượt quá mức độ cho phép có thể ảnh hưởng tới cán cân tài khoản vãng lai và gây nên những biến động bất lợi đối với nền kinh tế như gia tăng tình trạng nợ quốc tế, hạn chế khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tác động tiêu cực đến thu nhập và việc làm và ở mức trầm trọng hơn có thể gây nên khủng hoảng tài chính tiền tệ.


Đối với các nước đang phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa và mở cửa hội nhập kinh tế, thâm hụt cán cân thương mại là một hiện tượng khá phổ biến với yêu cầu nhập khẩu rất lớn trong khi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế, do đó mức tăng trưởng xuất khẩu trong ngắn hạn không thể bù đắp thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên và dai dẳng cho thấy sự yếu kém trong điều tiết kinh tế vĩ mô và hậu quả đối với nền kinh tế rất trầm trọng.

Cán cân thương mại cung cấp những thông tin liên quan đến cung cầu tiền tệ của một quốc gia, cụ thể là thể hiện sự thay đổi tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với ngoại tệ. Khi một nước nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, nghĩa là cung đồng tiền quốc gia đó có khuynh hướng vượt cầu trên thị trường ngoại hối nếu các yếu tố khác không thay đổi. Và như vậy có thể suy đoán rằng đồng tiền nội tệ của nước đó sẽ bị sức ép giảm giá so với các đồng tiền khác. Khi đồng tiền của một quốc gia giảm giá, sẽ làm tăng giá trị nhập khẩu tính bằng đồng tiền nước này. Với cùng một số tiền không đổi chi cho nhập khẩu, khi giá tăng thì khối lượng nhập khẩu sẽ phải giảm, tuy số lượng nhập khẩu giảm, nhưng giá trị nhập khẩu có thể tăng. Sau khi đồng tiền giảm giá, chi tiêu bằng đồng nội tệ cho nhập khẩu có thể tăng, song do giá xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm đă kích thích tăng khối lượng xuất khẩu, do đó không làm cho cán cân thương mại xấu đi.

Như vậy, nhập siêu có tác động nhất định tới tỷ giá hối đoái, làm đồng tiền nội tệ của một nước có khuynh hướng giảm giá, tuy nhiên trong dài hạn sự giảm giá của đồng nội tệ không có tác động xấu tới cán cân thương mại, do có tác dụng kích thích sản xuất hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 250 trang tài liệu này.

Ngoài ra, nhập siêu ở mức cao, kéo dài gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế và điều hành chính sách tiền tệ, thể hiện qua các đặc điểm cụ thể sau:

Thứ nhất, nhập khẩu lạm phát gây khó khăn cho việc điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng và kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường ngoại hối. Mặc dù vậy, cơ cấu đầu vào sản xuất theo nguồn của nước ta cho thấy nhập khẩu có tác động không nhỏ tới giá cả trong nước. Với

Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM - Trường ĐH Ngân hàng - 6


những đặc điểm như vậy, giá cả nhập khẩu sẽ tác động mạnh tới chi phí sản xuất của nhiều ngành sản xuất, gây áp lực tới giá bán và giá sản phẩm tiêu dùng cuối cùng. Trong điều kiện nhập khẩu chủ yếu phục vụ sản xuất hay nói cách khác là hỗ trợ tăng trưởng, việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát nhập khẩu trong trường hợp có dấu hiệu của nhập khẩu lạm phát nhằm ổn định giá cả và duy trì tăng trưởng là không dễ dàng.

Thứ hai, nhập siêu gây bất ổn cán cân thanh toán tổng thể, từ đó tạo áp lực tới cung cầu ngoại tệ và tỷ giá.

Thứ ba, nhập siêu tạo áp lực suy giảm dự trữ ngoại hối.

Thứ tư, thâm hụt cán cân thương mại tạo ra sự giảm lòng tin của người dân vào đồng tiền của một Quốc gia, tăng cầu về USD hay một ngoại tệ khác và tăng đầu tư vào vàng nhằm bảo tồn giá trị.

Với các đặc điểm trên, thâm hụt cán cân thương mại càng làm cho tỷ giá của USD hay một ngoại tệ khác với đồng tiền của Quốc gia đó và giá vàng trong nước thường biến động theo chiều hướng tăng; cuối cùng tạo ra nhiều rủi ro cho KDNH của các NHTM một khi cung cầu trên thị trường thay đổi.

Tình trạng đôla hóa nền kinh tế

Theo IMF, đôla hóa là tình trạng mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% tổng khối tiền tệ mở rộng (M2) bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ.

Đôla hóa được hiểu theo cách đơn giản nhất là ngoại tệ USD được sử dụng rộng rãi bên cạnh đồng nội tệ làm đồng tiền thanh toán trong các giao dịch thương mại. Điển hình như, IMF đã xếp Việt Nam thuộc nhóm quốc gia đôla hóa không chính thức. Đôla hóa không chính thức là trường hợp đồng đôla được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế nhưng không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.

Đôla hóa tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đôla hóa có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân và các tổ chức kinh tế có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đôla Mỹ, làm cho cầu của đôla Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.


Đối với quốc gia có tình trạng đôla hóa không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định, trong trường hợp có biến động, người dân và các tổ chức kinh tế bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác hay còn gọi là hoạt động đầu cơ tỷ giá. Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho NHTW trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng và hoạt động của thị trường ngoại hối.

Ngoài ra, tình trạng đôla hóa còn gây áp lực tới việc NHTW can thiệp trên thị trường ngoại hối ngay cả khi tổng thể nền kinh tế không bị mất cân đối cung cầu ngoại tệ, tại vì các khu vực của nền kinh tế có xu hướng găm giữ ngoại tệ. Một nền kinh tế không có sự găm giữ ngoại tệ, NHTW chỉ bán ngoại tệ khi các khu vực trong nền kinh tế đã giao dịch với nhau nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ. Tuy nhiên, ở Việt Nam lại khác, ngay cả khi tổng thể nền kinh tế có dư cung ngoại tệ, NHNN vẫn phải bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.

Cũng giống như các phân tích trên, một khi nền kinh tế bị đôla hóa nặng nề, người dân ưa chuộng sử dụng USD hay một ngoại tệ mạnh khác trong các thanh toán hàng ngày, càng làm cho cầu USD hay một ngoại tệ mạnh khác tăng cao và họ mất niềm tin vào đồng tiền của Quốc gia mình. Cho nên, người dân có xu hướng tìm đến vàng và giảm dần niềm tin vào đồng tiền của Quốc gia mình. Từ các diễn biến như vậy trên thị trường ngoại hối, hoạt động KDNH rất dễ gặp rủi ro một khi giá vàng trên thị trường thế giới biến động mạnh và giá trị USD không duy trì được sức mạnh của mình.

Trạng thái ngoại tệ

Điển hình như tại Việt nam, theo Thông tư số 07/2012/TT-NHNN ngày 20/03/2012 do NHNN ban hành quy định về trạng thái ngoại tệ của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trạng thái ngoại tệ là trạng thái nguyên tệ của ngoại tệ đó được quy đổi sang đồng Việt Nam theo tỷ giá quy đổi trạng thái.


Thông tư cũng quy định một số nội dung mới so với các quy định trước đây về giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ như sau: Giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ được tính bằng tỷ lệ giữa tổng trạng thái ngoại tệ dương hoặc tổng trạng thái ngoại tệ âm chia cho vốn tự có của TCTD. Vốn tự có để tính giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ của TCTD là vốn tự có của tháng liền kề trước kỳ báo cáo của TCTD. Tổng trạng thái ngoại tệ dương cuối ngày của TCTD không được vượt quá 20% vốn tự có và tổng trạng thái ngoại tệ âm cuối ngày của TCTD không được vượt quá 20% vốn tự có của TCTD, riêng các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam có vốn tự có từ 25 triệu đô la Mỹ trở xuống thì trạng thái ngoại tệ được quy định: tổng trạng thái ngoại tệ dương cuối ngày quy ra đô la Mỹ không được vượt quá 5 triệu đô la Mỹ và tổng trạng thái ngoaị tệ âm cuối ngày quy ra đô la Mỹ không được vượt quá 5 triệu đô la Mỹ.

Đây cũng là một trong những công cụ để điều hành của NHNN. Càng co hẹp trạng thái ngoại tệ, càng hạn chế được khả năng đầu cơ ngoại tệ, hạn chế việc chuyển đổi các đồng tiền. Do vậy, với việc giảm trạng thái ngoại tệ trong quy định mới có thể khiến thị trường ngoại tệ biến động nhiều hơn trong thời gian tới và tạo ra nhiều biến động cho tỷ giá USD/VND. Mặt khác, việc các TCTD phải điều chỉnh lại trạng thái ngoại tệ theo hạn mức mới đồng nghĩa với việc tổ chức phải mua lại nếu đang ở trạng thái âm lớn hơn hạn mức. Nhu cầu mua lại có lẽ sẽ gây áp lực nhất định cho thị trường ngoại hối vì tình trạng chênh lệch lãi suất vay USD và VND thời gian qua đã khuyến khích hoạt động chuyển vốn, chẳng hạn bán USD ra để đổi sang VND nhằm cho vay.

Ngoài ra, hoạt động kinh doanh vàng thông qua việc mua bán vàng trên tài khoản vàng tại nước ngoài cũng có ảnh hưởng nhất định đến trạng thái ngoại tệ của các NHTM. Từ đó, trạng thái ngoại tệ này ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động KDNH của các ngân hàng.

Cơ chế điều hành tỷ giá

Kể từ năm 1999, khi Việt Nam có sự thay đổi lớn trong cơ chế tỷ giá, bảng phân loại cơ chế tỷ giá của IMF xếp Việt Nam vào nhóm cơ chế tỷ giá thả nổi với


mức phân định là cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý không định trước (Managed floating with no predetermined for exchange rate) cùng với các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore. Ở cùng thời gian này, Malaysia và Trung Quốc vẫn được xếp vào nhóm cố định truyền thống (Conventional pegged arrangement) tức là có cơ chế tỷ giá “cứng” hơn so với Việt Nam. Tuy nhiên, từ cuối năm 2004 trở lại đây, IMF chuyển Việt Nam sang nhóm nước có cơ chế cố định truyền thống vì nhận định rằng kể từ tháng 8/2004, NHNN công bố sẽ không để tỷ giá USD/VND tăng quá 1%/năm. Có thể thấy, dưới góc nhìn của IMF, Việt Nam đã có sự chuyển đổi cơ chế tỷ giá theo hướng lùi về nhóm “cứng”.

Với độ mở thương mại khá cao, sự thiếu ổn định của tỷ giá sẽ gây nên vấn đề nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Trong ngắn hạn và kể cả trung hạn, Việt Nam khó có thể chuyển sang trạng thái có độ mở thương mại thấp nên nếu dựa trên yếu tố này, điều đương nhiên là Việt Nam sẽ chưa thể lựa chọn cơ chế thả nổi. Tuy nhiên, nếu đeo đuổi cơ chế tỷ giá theo hướng cứng kém linh hoạt, Việt Nam sẽ đối mặt với áp lực điều chỉnh tỷ giá lớn “bất thường” (dù có thể không liên tục) khi nền kinh tế đối mặt với bất ổn trong cán cân thanh toán, vì duy trì tỷ giá cứng khá lâu. Kết quả là chính những lần điều chỉnh lớn “bất thường” như vậy sẽ làm gia tăng rủi ro tỷ giá, tăng chi phí giao dịch, tác động tiêu cực đến việc khuyến khích hoạt động thương mại và đầu tư, gây rối loại trên thị trường ngoại hối.

Ngoài ra, với việc quy định tỷ giá USD/VND theo hướng thị trường và có điều tiết của NHNN dễ dàng tạo ra rủi ro tỷ giá như phân tích ở trên, đồng thời kéo theo rủi ro cho hoạt động kinh doanh vàng của các ngân hàng với lý do là giá vàng trong nước được xác định dựa vào giá vàng thế giới, tỷ giá USD/VND và các chi phí khác, cho nên rủi ro tỷ giá cũng tất yếu gây nên rủi ro trong hoạt động kinh doanh vàng của ngân hàng.

Các hợp đồng giao dịch phái sinh ngoại hối

Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt


nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỷ giá, lãi suất, v.v... Công cụ tài chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro, trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng hoán đổi hay những sản phẩm phái sinh kết hợp.

Mặc dù, xuất hiện lần đầu tiên với tư cách là một công cụ phòng chống rủi ro nhưng cùng với sự lớn mạnh và phức tạp của thị trường tài chính, các công cụ tài chính phái sinh cũng được sử dụng nhiều hơn để tìm kiến lợi nhuận và thực hiện các hoạt động đầu cơ. Ngày nay, hoạt động kinh doanh của các NHTM trở nên phong phú và đa dạng hơn bao giờ hết, bên cạnh các nghiệp vụ ngân hàng mang tính truyền thống thì các ngân hàng đã không ngừng phát triển các nghiệp vụ tài chính mới, hiện đại, trong đó, phải kể đến các giao dịch kinh doanh ngoại tệ với doanh số giao dịch lớn hơn nhiều so với trước đây. Đây là hoạt động kinh doanh có thể đem lại lợi nhuận rất cao cho NHTM, nhưng cũng chứa không ít rủi ro. Khi tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng sẽ tạo ra trạng thái ngoại tệ mở và dẫn đến rủi ro tỷ giá cho ngân hàng nếu tỷ giá trên thị trường biến động. Để có thể hạn chế được rủi ro này, ngân hàng sẽ phải tiến hành các biện pháp phòng ngừa, một trong những công cụ hữu hiệu phòng ngừa tỷ giá đó chính là các hợp đồng phái sinh tiền tệ. Các hợp đồng phái sinh tiền tệ cơ bản bao gồm: hợp đồng ngoại hối kỳ hạn, hợp đồng ngoại hối hoán đổi, hợp đồng ngoại hối quyền chọn và hợp đồng ngoại hối tương lai. Công cụ phổ biến nhất để kiểm soát rủi ro giao dịch ngoại hối là những hợp đồng tương lai, hoán đổi và quyền chọn tiền tệ. (Joel Bessis, 2011)

Như vậy, công cụ phái sinh ngoại hối ra đời là để bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Tỷ giá biến động theo một biên độ lớn và ngẫu nhiên, phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là điều kiện tiên quyết cho việc sử dụng các công cụ phòng chống rủi ro. Trên thị trường ngoại hối, bên cạnh việc phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ thì thị trường còn ẩn chứa các yếu tố đầu cơ và chênh lệch giá về ngoại tệ. Đây cũng là những yếu tố quan trọng trong việc làm cho tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối biến động một cách khó dự đoán. Chính vì sự không dự đoán trước được những thay đổi của tỷ giá trên thị trường các NHTM luôn có mong muốn bảo


hiểm rủi ro để chống lại những tổn thất có thể xảy ra đối với các dòng tiền ngoại tệ của mình. Ngược lại, một khi các NHTM không sử dụng các sản phẩm phái sinh cho các giao dịch ngoại hối thì đây là một trong các nguyên nhân gây ra rủi ro ngoại hối cho các ngân hàng.


1.2.2. Các nhân tố riêng tác động đến rủi ro trong kinh doanh ngoại hối

Có hai nguyên nhân chính làm phát sinh rủi ro trong KDNH tại các Ngân hàng, đó là:

Các Ngân hàng mua bán ngoại tệ hay vàng phục vụ cho khách hàng và mua bán cho chính mình;

Các Ngân hàng đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ hay vàng.

Cả hai nguyên nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại hối ròng (trường hoặc đoản) đối với hầu hết các NHTM hiện nay. Chúng ta thấy rằng, nếu tỷ giá ngoại tệ hay giá vàng biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối sẽ càng lớn; chính vì vậy, theo nghĩa hẹp người ta thường xem rủi ro ngoại hối là rủi ro tỷ giá ngoại tệ hay rủi ro về giá vàng.

Trong môi trường toàn cầu hóa tài chính - ngân hàng như ngày nay, nhà quản trị Ngân hàng ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với rủi ro ngoại hối, điều này cũng làm phát sinh nhiều nghiệp vụ mới (gọi là nghiệp vụ phái sinh) trong kinh doanh ngoại hối và được sử dụng tích cực vào việc phòng ngừa rủi ro ngoại hối.

Để xác định rủi ro ngoại hối, thông thường người ta sử dụng trạng thái ngoại tệ ròng áp dụng đối với ngoại tệ và mô hình VaR áp dụng đối với vàng. Như tại Việt nam, theo hướng dẫn của Thông tư 07/2012/TT-NHNN ngày 20/03/2012, trạng thái ngoại tệ ròng của một TCTD được xác định bằng trạng thái nội bảng cộng với trạng thái ngoại bảng, hay là bằng chênh lệch giữa tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ cộng với chênh lệch giữa mua vào và bán ra bằng ngoại tệ được ghi nhận ở ngoại bảng. Tổng trạng thái ngoại tệ cuối ngày của các TCTD, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài không được vượt quá 20% vốn tự có của TCTD, chi nhánh Ngân hàng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/05/2023