Quản lý rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Sài gòn Hà Nội- SHB Chi nhánh Quảng Ninh - 11


định và đề xuất tín dụng (Bộ phận QHKH); thẩm định rủi ro và quản lý danh mục tín dụng (Bộ Phận Quản lý rủi ro); theo dõi, quản lý các khoản nợ bị suy giảm khả năng trả nợ (Phòng quản lý nợ có vấn đề); kiểm tra, giám sát tín dụng độc lập (Ban kiểm tra, kiểm soát nội bộ). Nhờ đó, quá trình đổi mới cơ cấu tổ chức đã mang lại những một số kết quả khả quan về chất lượng tín dụng như đã đề cập ở trên.

- Bên cạnh đó SHB Quảng Ninh có đội ngũ nhân sự trẻ trung, nhanh nhẹn, thường xuyên được đào tạo nội bộ về: nghiệp vụ tín dụng, chủ trương chính sách, chia sẻ kinh nghiệm tác nghiệp với khách hàng… các bộ phận đã được chuyên môn hóa sâu hơn tùy theo chức năng, phân định rõ trách nhiệm giữa các bộ phận. Điều đó đã tăng chất lượng công việc tại các bộ phận, chất lượng thẩm định được nâng cao, công tác kiểm tra trước, trong và sau cho vay được tăng cường.

Trong thời gian qua, mặc dù môi trường kinh tế có nhiều biến động khó lường, chính sách tiền tệ liên tục thay đổi ảnh hưởng đến lĩnh vực Ngân hàng nhưng quy mô, chất lượng hoạt động tín dụng của SHB Quảng Ninh có xu hướng tích cực, đóng góp lớn vào thu nhập của ngân hàng. Điều này thể hiện công tác quản lý rủi ro tín dụng của SHB Quảng Ninh đã và đang được quan tâm và đang dần phát huy hiệu quả.

b. Về Quy trình QLRR tín dụng KHCN của SHB Quảng Ninh


Nhìn chung, quy trình cấp tín dụng của SHB Quảng Ninh cho đến nay đã được thể chế hóa tương đối đầy đủ, chặt chẽ, đồng bộ, phù hợp với thực trạng khách hàng và cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, đã bao gồm khá toàn diện các nội dung cần thiết mà các ngân hàng cần thực hiện trong quá trình phê duyệt tín dụng như: (i) đã đưa ra các tiêu chí cấp tín dụng rõ ràng về năng lực pháp lý, năng lực tài chính, lịch sử quan hệ tín dụng, tính khả thi của phương án, dự án vay; (ii) đã thiết lập các hạn mức tổng thể cho khách hàng ở mức từng khách hàng riêng lẻ hoặc theo nhóm đối tác có liên quan; (iii) đã xây dựng quy trình đánh giá chính thức và phê duyệt (chủ yếu theo phân cấp thẩm quyền tín dụng) cụ thể.


- Đã xây dựng được danh mục khách hàng chi tiết để làm nền tảng cho quá trình triển khai phát triển tín dụng. Danh mục khách hàng tín dụng của SHB Quảng Ninh luôn được kiểm soát chặt chẽ đểm đảm bảo bố sung được những khách hàng tốt và loại bỏ được các khách hàng yếu kém, các khách hàng có dấu hiệu suy giảm.

- Đã xây dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Quy định thống nhất cách thức đánh giá, xếp hạng khách hàng nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng, trên cơ sở đó đảm bảo khả năng quản trị tín dụng thống nhất trong toàn hệ thống, là căn cứ để dự báo được tổn thất tín dụng theo từng nhóm khách hàng, từ đó xây dựng chiến lược và chính sách tín dụng hợp lý.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

2.3.6.2. Hạn chế

a. Về Mô hình và chính sách QLRR tín dụng KHCN của SHB Quảng Ninh

Quản lý rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Sài gòn Hà Nội- SHB Chi nhánh Quảng Ninh - 11


- Hạn chế trong việc nhận biết rủi ro: Luôn có tư tưởng để mức độ rủi ro càng thấp càng tốt, chưa tính đến tương quan giữa thu nhập và rủi ro. Văn hoá về quản lý rủi ro hầu như chưa được quán triệt ở ngân hàng. Thông tin về nhận biết rủi ro không đầy đủ, kịp thời, không có tính hệ thống và thiếu chính xác. Vấn đề này thể hiện trong chất lượng báo cáo thẩm định tín dụng và các báo cáo phục vụ quản lý. đồng thời, cũng không có sự phân cấp giữa người cập nhật thông tin và sử dụng thông tin, tình trạng báo cáo tay là chủ yếu. Hạn chế trong mô hình tổ chức quản lý rủi ro: Công tác quản lý rủi ro còn thực hiện phân tán. Mô hình quản lý rủi ro tín dụng chưa độc lập sự tách bạch rõ ràng giữa 3 bộ phận: Bộ phận kinh doanh (đóng vai trò là người đề xuất các sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho khách hàng), bộ phận quản lý rủi ro (bộ phận rà soát các đề xuất do bộ phận kinh doanh chuyển sang phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt), bộ phận tác nghiệp (bộ phận chịu trách nhiệm nhập dữ liệu vào hệ thống, quản lý toàn bộ hồ sơ và thực hiện chức năng báo cáo).

- Chiến lược quản lý rủi ro tín dụng chưa toàn diện: SHB Quảng Ninh chưa có một chiến lược rủi ro tín dụng toàn diện thiết lập các mục tiêu định hướng cho các hoạt động cấp tín dụng. Các chiến lược phát triển hàng năm hay trung, dài hạn của


Ngân hàng tuy có đề cập một số nội dung cơ bản của quản lý rủi ro tín dụng như danh mục đầu tư tín dụng theo kỳ hạn, ngành hàng, loại khách hàng, thị trường, sản phẩm mục tiêu, tỷ lệ tăng trưởng…song chỉ mang tính nguyên tắc và định hướng, chưa cụ thể, chưa đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu của một chiến lược rủi ro tín dụng như: (i) chưa phản ánh được mức độ chấp nhận rủi ro (hay khẩu vị rủi ro) của ngân hàng và mức sinh lời mà ngân hàng kỳ vọng khi chấp nhận các rủi ro tín dụng; (ii) chưa xem xét, đánh giá các mục tiêu về chất lượng tín dụng, thu nhập và tăng trưởng trong mối tương quan qua lại, trong quan hệ với tiềm năng nội tại của ngân hàng và với môi trường kinh tế tổng thể; (iii) chưa tạo ra khuôn khổ để kiểm soát, điều chỉnh cơ cấu và chất lượng danh mục đầu tư tín dụng theo các mục tiêu đã đề ra. Thực tiễn cho thấy, việc thiếu một chiến lược rủi ro làm khung định hướng cho các chính sách, quy trình và hoạt động tín dụng khiến không chỉ SHB QUảNG NINH, mà các ngân hàng thương mại Việt nam khác khá lúng túng và bị động trong hoạt động kinh doanh. Cấp tín dụng dựa quá nhiều vào lợi nhuận kỳ vọng hoặc tài sản bảo đảm mà không gắn liền với rủi ro, không quán triệt nguyên tắc đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận khiến các ngân hàng thường rơi vào một trong hai trạng thái đối lập, hoặc mở rộng tín dụng quá mức để chạy theo lợi nhuận khi có các điều kiện thuận lợi, hoặc thu hẹp quá mức khi vấp phải các khó khăn, thử thách. Kết quả là trong bất kỳ giai đoạn hoạt động nào, các ngân hàng cũng đều phải đương đầu với các vấn đề về chất lượng tín dụng và lãng phí quá nhiều tài nguyên ngân hàng để xử lý các khoản nợ có vấn đề. Thiếu chiến lược rủi ro tín dụng, một kế hoạch phát triển bền vững, thành công trong dài hạn sẽ luôn nằm ngoài tầm với của các ngân hàng.

- Về chức năng quản lý rủi ro: Hiện tại ngân hàng đang có sự chuyển giao của hai mô hình quản lý rủi ro tập trung và phân tán: từng bộ phận kinh doanh tại Hội sở chính cũng như tại chi nhánh tự thực hiện nhiệm vụ quản lý rủi ro theo quy trình nghiệp vụ; phê duyệt các giao dịch kinh doanh, báo cáo rủi ro khép kín trong từng quy trình nghiệp vụ. Do SHB Quảng Ninh chưa áp dụng được chuẩn mô hình quản trị rủi ro tập trung nên chưa phân tách rõ ràng được giữa 3 chức năng: quản lý rủi ro, kinh doanh, tác nghiệp và quản trị nợ. Điều này sẽ dẫn đến sự chồng chéo, cùng


việc phân quyền chưa phù hợp như trên sẽ kéo theo sự đi xuống của cả bộ phận kinh doanh và quản trị rủi ro.

b. Về Quy trình QLRR tín dụng KHCN của SHB Quảng Ninh


- Quy trình cấp tín dụng còn bất cập:


Phòng khách hàng của ngân hàng thực hiện đầy đủ 3 chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay do đó nhiều công việc tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên sâu dẫn đến chất lượng công tác chưa cao. Việc bộ phận tín dụng vừa là người đi tìm kiếm, tiếp xúc khách hàng vừa phân tích khách hàng để trình duyệt thường kém tính khách quan và tiềm ẩn rủi ro lớn cho ngân hàng do : (i) Bộ phận tín dụng thường phải chịu áp lực về phát triển, mởrộng khách khách hàng nên họ có thể phân tích khách hàng theo hướng tốt hơn so với thực tế để được phê duyệt cho vay, đảm bảo chỉ tiêu về dư nợ. (ii) Cán bộ tín dụng tiếp xúc trực tiếp khách hàng nên đôi khi có thể nảy sinh sự thông đồng giữa cán bộ tín dụng và khách hàng dẫn đến khai tăng nhu cầu vốn để vay hộ, vay ké hoặc khách hàng mua chuộc cán bộ tín dụng để vay được tiền ngân hàng. Cán bộ tín dụng phải đảm bảo tất cả các giai đoạn từ hướng dẫn lập hồ sơ, tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ và tiến hành thẩm định tất cả nội dung liên quan đến khách hàng như pháp lý, uy tín, tài chính, tài sản đảm bảo. Với khối lượng công việc lớn như vậy lại chịu áp lực về thời gian trả lời khách hàng đúng quy định, dẫn đến cán bộ tín dụng khó có đủ thời gian để thu thập thông tin đầy đủ, dẫn đến tình trạng phân tích sơ sài, không đánh giá đúng thực trạng của khách hàng.

Do hạn chế về tính minh bạch của thông tin khách hàng và năng lực thẩm định yếu của cán bộ tín dụng nên để đảm bảo an toàn cho Ngân hàng, quy trình cấp tín dụng nhìn chung còn cồng kềnh, phức tạp, quy trình cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như cá nhân hầu như vẫn giống hệt quy trình cho vay khách hàng doanh nghiệp lớn. Hạn chế nói trên gây lãng phí về nhân lực, tài lực của Ngân hàng khi xử lý các khoản tín dụng.

Quyết định cấp tín dụng cho một khoản vay/khách hàng chủ yếu dựa trên các đặc điểm của riêng khoản vay/khách hàng đó mà chưa xem xét, đánh giá tác động


của khoản vay/khách hàng đó tới tổng thể rủi ro của danh mục đầu tư theo ngành, lĩnh vực kinh tế, khu vực địa lý và các sản phẩm cụ thể.

Hiện nay, một cán bộ tín dụng quản lý rất nhiều khách hàng, đặc biệt đối với cán bộ tín dụng ở phòng khách hàng cá nhân quản lý 200 -300 khách hàng cho nên việc thẩm định phân tích khách hàng trước, trong và sau khi cho vay chưa được thực hiện nghiêm túc. Trong thời gian vừa qua đã có những chi nhánh còn vi phạm quy trình, quy định cho vay mà ngân hàng phải xử lý.

Chất lượng tín dụng có lúc, có nơi chưa được coi trọng đúng mức, việc tuân thủ quy trình tín dụng chưa nghiêm ( thẩm định sơ sài, hồ sơ tài sản thế chấp chưa đầy đủ yếu tố pháp lý), một số CBTD khi quyết định cho vay còn dựa trên yếu tố chủ quan về tài sản bảo đảm tiền vay, coi trọng yếu tố này mà chưa coi trọng đến hiệu quả của phương án, dự án vay vốn. Một bộ phận CBTD yếu về chuyên môn nghiệp vụ, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế , chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, trong thẩm định và quyết định cho vay vẫn để xảy ra tình trạng cho vay vượt khả năng thanh toán của khách hàng vay vốn.

Việc kiểm tra sử dụng vốn vay còn mang tính hình thức, chiếu lệ, chưa thường xuyên, việc kiểm tra sau khi cho vay chưa được coi trọng như là một tất yếu của quy trình cho vay, từ đó dẫn đến một số khách hàng còn sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ Ngân hàng.

Công tác xử lý nợ xấu còn một số vấn đề tồn tại, biện pháp tích cực thu hồi nợ ngay từ khi phát sinh nợ xấu chưa được coi trọng, chưa có phương pháp và cách thức theo dạng “ cẩm nang” hướng dẫn toàn chi nhánh trong việc thu hồi nợ xấu dẫn đến hiệu quả chưa cao, chưa được thực sự chủ động trong việc xử lý nợ tồn đọng, vẫn ỷ lại vào việc dùng dự phòng rủi ro để xử lý sau đó chuyển hạch toán theo dõi ngoại bảng tổng kết tài sản.

- Hệ thống đo lường rủi ro tín dụng thiếu đồng bộ:


Hệ thống hỗ trợ đo lường, phân tích rủi ro tín dụng vẫn còn thiếu tính đồng bộ.


Hiện nay, ngân hàng mới chỉ có hệ thống XHTD nội bộ để đánh giá rủi ro của khách hàng, tuy nhiên hệ thống này vẫn còn một số hạn chế, cụ thể là: Về hệ thống chỉ tiêu phân tích, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đều có đặc điểm hoạt động riêng của mình. Hệ thống các chỉ tiêu chấm điểm đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau có khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống các chỉ tiêu hiện tại vẫn còn chưa phản ánh được những đặc thù trong hoạt động của từng ngành riêng biệt.

Khả năng phân tích ngành nghề yếu kém, bên cạnh đó lại chưa có các bộ chỉ tiêu chuẩn vê từng ngành, do đó không đưa ra được các cảnh báo và định hướng cho hoạt động tín dụng, nhằm hạn chế đầu tưvào những ngành, thành phần kinh tế làm ăn kém hiệu quả. điều này còn ảnh hưởng đến kết quả xếp hạng khách hàng do cán bộ tín dụng thường cho điểm không chính xác các chỉ tiêu đánh giá ngành nghề theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.

2.3.6.3. Nguyên nhân của hạn chế

a. Từ phía ngân hàng cho vay


(1) Chưa có định hướng, chiến lược cụ thể cho quản lý rủi ro của ngân hàn:


Mặc dù đã có những bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro tín dụng, song định hướng chiến lược quản lý rủi ro mới chỉ thể hiện ở những chỉ đạo kinh doanh mang tính tổng quát như: cảnh báo hoặc hạn chế tín dụng ở một số lĩnh vực, ngành nghề. Nói cách khác, quản lý rủi ro chưa được ưu tiên hàng đầu trong công tác hoạch định chiến lược của ngân hàng. Việc quản lý rủi ro chỉ được thực hiện ở cấp độ từng món cụ thể, hoặc những cảnh bảo trong từng thời kỳ và vì thế không thể phản ánh mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng một cách tổng quan. Hơn thế nữa, một tư duy truyền thống của các nhà quản trị ngân hàng là chức năng quản lý rủi ro chỉ là chức năng phụ trợ. Do vậy, thiếu một thông điệp mạnh mẽ cho trong toàn ngân hàng về quản lý rủi ro.

(2) Ngân hàng chưa trú trọng quy trình theo dõi tín dụng:


Hệ thống quản lý các giới hạn rủi ro của SHB Quảng Ninh cơ bản chưa được tự động hoá, mới chỉ tự động hoá được khâu quản lý giới hạn tín dụng cấp cho một


khách hàng ở phạm vi chi nhánh. Một khiếm khuyết cơ bản khác của Ngân hàng trong quản lý tín dụng cần đặc biệt nhấn mạnh chính là việc thiếu hệ thống đo lường rủi ro tín dụng, một công cụ quan trọng để hỗ trợ các chính sách, thủ tục và quyết định tín dụng của Ngân hàng. Từ việc thiếu hệ thống đo lường trên mà chiến lược hoạt động, chính sách, thủ tục, quyết định tín dụng cũng như xác định lãi suất cho vay của Ngân hàng hầu hết đều mang tính chung chung, định tính, chưa có căn cứ định lượng cụ thể nên chưa có tính khoa học, chính xác cao.

Những hạn mức phê duyệt, tiêu chuẩn về khách hàng, hệ thống chấm điểm tín dụng mặc dù đã được trú trọng thiết lập trên toàn hệ thống. Song những hạn mức, tiêu chuẩn trên mới chỉ được thiết lập dựa trên những yếu tố định tính. Chẳng hạn, hệ thống xếp hạng tín dụng khách hàng chỉ dừng lại ở việc tính thẻ điểm và khoảng giá trị cho từng nhân tố mà chưa có mô hình thống kê tính toán khả năng trả nợ của khách hàng. Hầu hết việc quản lý rủi ro được thực hiện dựa trên những đánh giá định tính, việc định giá khoản vay còn mang tính chung chung

(3) Nhân sự của bộ phận quản lý rủi ro còn hạn chế


SHB Quảng Ninh chưa trú trọng phát triển, duy trì một đội ngũ chuyên gia quản lý rủi ro. Thực trạng này cũng xuất phát từ tư duy không coi trọng công tác rủi ro của các ngân hàng thương mại. Hầu hết cán bộ rủi ro đều là những cán bộ tín dụng chuyển sang, không có chuyên ngành sâu về quản lý rủi ro tín dụng. Trong khi đó, nghiệp vụ quản lý rủi ro trên thế giới đã có những tiến bộ vượt bậc với những ứng dụng của các thuật toán, mô hình thống kê hiện đại. Điều này đòi hỏi người làm công tác rủi ro vừa phải có kinh nghiệm tín dụng, vừa phải có kiến thức về các mô hình thống kê. Hạn chế về trình độ cán bộ còn thể hiện ở đội ngũ cán bộ kiểm tra kiểm soát tín dụng. Trong một thời gian dài, cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm soát hầu hết lại là những cán bộ tín dụng không có năng lực. Do đó, công tác kiểm tra, kiểm soát, một phần quan trọng của quản lý rủi ro tín dụng được thực hiện một cách hình thức, hiệu quả kém.

(4) Hoạt động kiểm tra, giám sát chưa được trú trọng đúng mức


Chất lượng thẩm định hồ sơ xin cấp tín dụng của các chi nhánh còn thấp. Nguyên nhân chính là do hệ thống tiêu chí thẩm định hồ sơ còn mang nặng tính định tính, chưa quan tâm đến độ tin cậy của thông tin, đặc biệt là thông tin tài chính do khách hàng cung cấp (ví dụ như không yêu cầu Báo cáo tài chính đã kiểm toán). Thêm vào đó, thái độ làm việc chủ quan, thiếu tính thận trọng thích đáng của cán bộ tín dụng đã làm gia tăng RRTD với các khoản cho vay. Cán bộ tín dụng tại các chi nhánh thường có xu hưởng chủ đạo là làm việc dựa trên thông lệ, quá tin tưởng vào những khách hàng truyền thống mà bỏ qua các bước đánh giá những sự thay đổi liên quan đến khách hàng.

b. Rủi ro từ phía khách hàng vay vốn


Ngoài các nguyên nhân xuất phát từ phía Ngân hàng, còn có nguyên nhân xuất phát từ phía khách hàng.

(1) Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích: Do sử dụng vốn sai mục đích (dùng vốn vay kinh doanh thông thường để đầu tư bất động sản, chứng khoán; hoặc dùng vốn ngắn hạn để đầu tư trung dài hạn…). Trường hợp này thường xảy ra trong các lĩnh vực hoặc khách hàng/khoản vay có đặc điểm sau: Cho vay hạn mức nhưng không kiểm soát được việc sử dụng vốn vay của khách hàng; Số tiền vay quá lớn so với nhu cầu vốn lưu động thực sự của khách hàng; Cho vay đầu tư dự án với thời hạn không phù hợp với khả năng khấu hao, dẫn đến khách hàng buộc phải dùng nguồn ngắn hạn lưu động để trả nợ trung dài hạn;

(2) Do khách hàng bị chiếm dụng vốn - Rủi ro này thường xảy ra trong các lĩnh vực hoặc các khách hàng/khoản vay có đặc điểm: Giải ngân tiền mặt để ứng vốn trước cho các đại lý thu mua nhưng không kiểm soát được chất lượng và số lượng đại lý dẫn đến bị chiếm dụng, thất thoát; Khách hàng không có chính sách, biện pháp quản lý các khoản phải thu (nhất là lĩnh vực xây dựng cơ bản, sử dụng vốn ngân sách).

(3) Khách hàng không tiêu thụ được sản phẩm, thường xảy ra ở các khoản vay có đặc điểm: Đầu tư sản phẩm công nghệ cao, hàng điện tử với thời gian dài hơn vòng đời thực tế, có trường hợp thời gian cho vay 8 năm nhưng vòng đời thực tế

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/01/2023