Thứ nhất, về mặt dữ liệu và thông tin đầu vào. Việc thu thập các dữ liệu đáng tin cậy hiện nay được đánh giá là rào cản lớn nhất trong quá trình triển khai các mô hình đánh giá rủi ro tín dụng. Vướng mắc chủ yếu của quá trình thu thập dữ liệu tín dụng ở Việt Nam là sự khan hiếm và không chính xác của dữ liệu. Dù mô hình đánh giá rủi ro tín dụng có tốt về mặt phương pháp luận nhưng dữ liệu không có chất lượng cao thì kết quả đầu ra của mô hình không có nhiều ý nghĩa. Để khắc phục hạn chế này, theo tác giả, công việc đầu tiên là phải từng bước hoàn thiện hệ thống kế toán Việt Nam, các NHTM phải có được các báo cáo tài chính với số liệu trung thực của các doanh nghiệp, việc kiểm toán phải trở thành bắt buộc (ít nhất là đối với doanh nghiệp lớn) và phải được kiểm soát chặt chẽ để tránh gian lận. Một khó khăn nữa trong quá trình thu thập dữ liệu là thu thập dữ liệu về các vụ vỡ nợ của khách hàng, mặc dù một phần là các vụ vỡ nợ không phải xảy ra thường xuyên và xảy ra rải rác nên khó thu thập thông tin. Để có được các số liệu chính xác về các vụ vỡ nợ và phá sản, Luật phá sản cần được sửa đổi cho phù hợp hơn nữa và thực hiện công khai thông tin về các vụ phá sản doanh nghiệp. Bên cạnh đó để tránh trùng lặp trong việc thu thập dữ liệu và xây dựng cơ sở dữ liệu tín dụng giữa các ngân hàng thì NHNN có thể phát triển CIC trở thành một trung tâm cơ sở dữ liệu lớn tập trung hơn nữa cho tất cả các ngân hàng và dựa trên đó phát triển các dịch vụ xếp hạng tín dụng, đánh giá rủi ro tín dụng…Điều này cho phép mỗi ngân hàng có thể tiếp cận nguồn thông tin chính thống và đóng góp vào việc xây dựng cơ sở dữ liệu chung của toàn ngành.
Thứ hai, NHNN nên thay đổi các quy định về dự phòng rủi ro tín dụng hiện nay tại Thông tư 02/2013/TT-NHNN theo sát hơn chuẩn quốc tế; tiến tới cho phép các ngân hàng thương mại tự lựa chọn mô hình đánh giá rủi ro và ước tính dự phòng cần thiết với sự kiểm soát, hỗ trợ của NHNN.
Thứ ba, theo khuyến nghị của Basel thì để thực hiện được các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng hiện đại như FIRB và AIRB thì kết quả xếp hạng tín dụng là yếu tố đầu vào quan trọng nhất quyết định tính chính xác của kết quả đo lường. Trước thực trạng có sự không đồng nhất trong kết quả xếp hạng tín dụng
của các NHTM đã chỉ ra tại chương 3 của luận án, tác giả đề xuất NHNN cần đưa ra quy định chung thống nhất, cụ thể hơn và sát hơn với các chuẩn mực của Basel về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các NHTM để bổ sung hoặc thay thế cho Thông tư 02/2013/TT-NHNN hiện hành. Quy định mới này nên bao gồm các tiêu chuẩn và yêu cầu cơ bản cho hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại NHTM và các hướng dẫn thực hiện chi tiết. Tuy vậy quy định này cũng cần tạo điều kiện cho NHTM được phép lựa chọn áp dụng các phương pháp xếp hạng tín dụng khác nhau cho phù hợp với trình độ và điều kiện thực tế của mình.
4.3.2. Nhóm kiến nghị cho NHNN với tư cách là cơ quan quản lý, giám sát hoạt động mua bán nợ
(i) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý
Muốn có thị trường mua bán nợ xấu thì phải có người mua, người bán; phải có khuôn khổ pháp lý tốt cho thị trường hoạt động. Đặc biệt, muốn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường này thì khuôn khổ pháp lý phải tạo thuận lợi cho họ. Do đó, cần rà soát và xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về mua, bán nợ xấu, về quan hệ giữa công ty mua nợ xấu với các TCTD để có các điều chỉnh kịp thời, sớm có các quy định hỗ trợ các công ty này hoạt động thuận lợi.
(ii) Hoàn thiện các chuẩn mực kế toán theo thông lệ quốc tế tạo hành lang cho thị trường mua bán nợ xấu hoạt động hiệu quả
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng của kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động mua bán nợ xấu nói riêng, Việt Nam cần quốc tế hoá các chuẩn mực kế toán của mình. Điều này sẽ giúp cho các bên thuận tiện hơn rất nhiều trong việc chuyển đổi các chuẩn mực kế toán và cũng giúp xử lý chính xác hơn các khoản mục tài chính trong các báo cáo tài chính, làm cơ sở cho công tác định giá, mua bán nợ diễn ra thuận lợi, dễ dàng và hiệu quả hơn.
(iii) Tăng cường thông tin về hàng hóa trên thị trường mua bán nợ xấu Hàng hoá trên thị trường mua bán nợ xấu là các khoản vay được mua bán. Để hiểu rõ hơn về các khoản vay này thì các thành viên tham gia thị trường mua bán
Có thể bạn quan tâm!
- Lãi Suất Chiết Khấu Với Khoản Vay Cho Các Hạng Tín Dụng Khác Nhau Theo Các Kì Hạn Khác Nhau
- Xác Suất Chuyển Hạng Chung Của Hai Khoản Vay A Và B29
- Lộ Trình Gợi Ý Áp Dụng Các Mô Hình Đo Lường Rủi Ro Danh Mục Cho Vay Tại Các Nhtm Nhóm 2
- Quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 26
- Các Nguyên Tắc Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Theo Basel Ii
- Nhóm Nguyên Tắc Về Duy Trì Hệ Thống Quản Lý Tín Dụng, Đo Lường Và Quy Trình Giám Sát Thích Hợp
Xem toàn bộ 252 trang tài liệu này.
nợ xấu cần được có quy định cho phép khai thác thông tin từ các cơ quan thuế, hải quan, cơ quan đăng ký kinh doanh và các trung tâm giao dịch chứng khoán, thông tin có liên quan được lưu giữ ở các NHTM, trung tâm thông tin tín dụng CIC... Ngoài ra, cần thực hiện triệt để Đề án Chính phủ điện tử, đặc biệt là các cơ quan thuế và hải quan phải lưu giữ và cập nhật thường xuyên thông tin tài chính về các cá nhân, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước và chịu trách nhiệm về thông tin. Điều này giúp bên mua nợ có đủ hiểu biết về mức độ rủi ro thực tế của khoản vay, tránh tình trạng bất cân xứng thông tin trên thị trường.
(iv) Phát triển các tổ chức trung gian cho hoạt động mua bán nợ xấu
Các tổ chức trung gian cho thị trường này bao gồm tổ chức tư vấn, định giá, dịch vụ quản lý thu nợ, tổ chức định mức tín nhiệm. Để thị trường mua bán nợ xấu phát triển cần nhanh chóng gia tăng số lượng của nhà môi giới, nhà tư vấn đầu tư chuyên nghiệp liên quan đến mua bán nợ xấu.
(v) Xây dựng sàn giao dịch chuyên biệt nhằm nâng cao tính thanh khoản cho các hàng hóa trên thị trường mua bán nợ xấu
Đối với các khoản nợ xấu hiện nay cần xem xét thành lập một trung tâm mua bán nợ xấu (một dạng sàn giao dịch mua bán nợ đặc biệt). Đây sẽ là một hệ thống trung tâm quản lý thông tin về nợ xấu (bao gồm cả thông tin liên quan đến khách hàng vay, tài sản bảo đảm, lịch sử thu hồi nợ và lịch sử giao dịch). Trung tâm này sẽ cung cấp thông tin cần thiết cho cả bên mua và bên bán trên thị trường mua bán nợ xấu. Đồng thời có thể thí điểm tại Trung tâm này việc thực hiện chào mua nợ xấu công khai hoặc đấu thầu mua bán nợ xấu. Ngoài ra cũng cần hoàn thiện các quy định về công bố thông tin cho phép các nhà đầu tư dễ dàng và nhanh chóng tiếp cận các thông tin về nợ xấu; cải tiến các cơ chế xúc tiến cho hoạt động mua bán nợ, đơn giản hóa thủ tục đăng lý chuyển nhượng tài sản bảo đảm.
(vi) Xây dựng thống nhất và đầy đủ hệ thống cơ sở xác định giá bán nợ xấu
NHNN, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan cần thống nhất trong việc xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn xác định giá trị khoản nợ xấu để làm cơ sở đàm phán giữa bên mua và bên bán. Bởi hiện tại, trong giao dịch mua bán nợ xấu tự nguyện, có sự khác nhau lớn giữa giá của khoản nợ được định giá bởi các đơn vị định giá khác nhau, dẫn tới kéo dài thời gian đàm phán giữa bên mua nợ và bên bán nợ, từ đó dẫn đến thất bại trong giao dịch. Bên cạnh đó, nên nghiên cứu việc cho ra đời hoạt động của các công ty định giá có chức năng định giá độc lập các khoản nợ xấu như mô hình các công ty định giá hiện tại. Việc ra đời các công ty dạng này sẽ giúp cả bên mua nợ và bên bán nợ xấu có cơ sở để xem xét, quyết định việc mua bán và đảm bảo việc mua bán nợ xấu được thực hiện khách quan.
(vii) Thay đổi quy định về thanh toán khi mua bán nợ xấu
Mục tiêu của các NHTM khi bán hoặc chuyển giao nợ xấu là để thu hồi một phần nợ và không phải chịu trách nhiệm đối với các khách hàng vay có rủi ro này. Vì thế, để ngân hàng tham gia sâu hơn vào quá trình xử lý nợ xấu thì cần có quy định buộc ngân hàng chuyển giao nợ xấu cho đơn vị mua nợ. Khi đó, đơn vị mua nợ sẽ hoạt động như là một nhà cung cấp dịch vụ.
(viii) Quy định về thời gian xử lý nợ xấu của các TCTD
NHNN cần có quy định cụ thể về xử lý các khoản nợ xấu của TCTD theo hướng tập trung bán nợ, khống chế thời hạn xử lý nợ, nếu quá thời hạn thì phải bán theo giá của tổ chức thẩm định trung gian. Trong đó, một trong các vướng mắc ảnh hưởng đến thời gian xử lý nợ xấu là nguồn vốn hạn chế của công ty mua bán nợ. Chỉ khi thời gian xử lý nợ xấu nhanh, thu hồi vốn sớm, các TCTD thấy lợi ích của việc mua bán nợ xấu thì chắc chắc nhu cầu bán nợ xấu sẽ trở thành nhu cầu thực sự của các TCTD mà không cần có bất kỳ sức ép nào từ phía các cơ quan quản lý của Nhà nước.
(ix) Tăng cường hợp tác quốc tế
Để vận hành và phát triển thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam, cần quan tâm giải quyết các vấn đề như: tiến hành khảo sát và học tập kinh nghiệm ở các nước về mặt quản lý nhà nước; mời hoặc thuê các chuyên gia có bề dầy kinh
nghiệm trong lĩnh vực phát triển thị trường mua bán nợ xấu trên thế giới làm cố vấn; thường xuyên trao đổi giữa các đoàn đi khảo sát với các quốc gia có thị trường mua bán nợ xấu phát triển; cử cán bộ quản lý đi học tập kiến thức về lĩnh vực mua bán nợ xấu tại các nước phát triển.
(x) Đa dạng hàng hóa các loại hàng hoá trên thị trường mua bán nợ xấu
Thị trường mua bán nợ xấu phát triển đến một giai đoạn cao tất yếu sẽ dẫn đến việc hình thành và phát triển các sản phẩm phái sinh có liên quan đến chứng khoán nợ như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn hay các sản phẩm chứng khoán hóa nhằm đa dạng hóa và đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của nhà đầu tư từ khả năng sinh lợi đến mục tiêu giảm thiểu, hoán đổi rủi ro hay chỉ đơn thuần là đánh cược với rủi ro. Đây là một giai đoạn phát triển cao của thị trường tài chính mà đòi hỏi hệ thống pháp lý phải rõ ràng, hệ thống công nghệ và trình độ các nhà đầu tư tham gia cũng phải được nâng lên tương ứng. Có thể nói, để đưa thị trường mua bán nợ xấu chính thức của Việt Nam ngày càng phát triển thì đây là một hướng đi tất yếu.
4.3.3. Nhóm kiến nghị cho NHNN với tư cách là đơn vị quản lý thị trường giao dịch phái sinh tín dụng của các NHTM tại Việt Nam
Thứ nhất, cần chú trọng tới việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thống nhất về nghiệp vụ tài chính phái sinh và phái sinh tín dụng cho các NHTM. NHNN nên nghiên cứu xây dựng cơ sở pháp lý đồng thời cho phép các ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ phái sinh này, tạo điều kiện cho các NHTM cung cấp những phương tiện phòng ngừa rủi ro tín dụng cho chính bản thân các ngân hàng. NHNN cũng nên ban hành những văn bản hướng dẫn thực hiện các nghiệp vụ này đối với các NHTM bởi hiện nay chưa có một văn bản pháp lý nào điều chỉnh phạm vi hoạt động của nghiệp vụ phái sinh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng khiến cho việc triển khai các nghiệp vụ này tại NHTM ở Việt Nam gặp khó khăn.
Thứ hai, để thị trường phái sinh tín dụng phát triển thì một trong số các tiền đề quan trọng là đẩy mạnh phát triển thị trường chứng khoán bởi thị trường chứng
khoán là kênh chủ chốt trong hoạt động các giao dịch phái sinh. Vì vậy, NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính để xây dựng kế hoạch và thực hiện phát triển hệ thống các trung gian tài chính trên thị trường nhằm đẩy nhanh và thúc đẩy thuận lợi hơn cho các giao dịch bảo hiểm rủi ro.
Thứ ba, hoàn thiện những quy định về tài chính, kế toán liên quan đến giao dịch mua bán hợp đồng tài chính phái sinh tín dụng bởi các hợp đồng phái sinh này cần phải được chuẩn hóa. Các quy định phải cụ thể chặt chẽ như quy định những loại tài sản được sử dụng làm tài sản cơ sở, số lượng mỗi lô giao dịch… Ngoài ra, những sự kiện rủi ro có liên quan đến biến cố chi trả bảo hiểm cần được xác định rõ phạm vi, giới hạn trả tiền và các trường hợp loại trừ, tránh trường hợp quy định không rõ ràng dẫn đến tranh chấp giữa NHTM và tổ chức bảo hiểm. Các hợp đồng chuẩn hóa của ISDA (International Swaps and Derivatives Assotiation - Hiệp hội phái sinh và hoán đổi quốc tế) có thể dùng làm cơ sở tham chiếu để áp dụng ở Việt Nam, đặc biệt về quy trình xử lý khi có sự kiện tín dụng và cơ chế định giá tài sản tham chiếu.
Kết luận chương 4
Trong chương 4, tác giả đã thực hiện mô phỏng về việc thực hiện nội dung đo lường rủi ro danh mục cho vay theo phương pháp FIRB (Basel II) và phương pháp Credit Metrics. Thông qua việc mô phỏng này, luận án hướng tới mục tiêu đưa ra giải pháp thực hiện một cách thực tế hơn cho các NHTM trong đo lường rủi ro danh mục cho vay. Bên cạnh đó, tác giả đưa ra các nhóm giải pháp về các nội dung quản lý rủi ro danh mục cho vay bao gồm: cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro danh mục cho vay, nhận diện rủi ro danh mục cho vay, đo lường rủi ro danh mục cho vay và sử dụng các công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay. Song song với những giải pháp cho các NHTM Việt Nam, tác giả cũng đưa ra các kiến nghị cho Ngân hàng Nhà nước với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước về các hoạt động ngân hàng, trong đó có hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại NHTM.
PHẦN KẾT LUẬN
Nội dung quản lý rủi ro danh mục cho vay không còn là vấn đề mới, tuy nhiên những nghiên cứu hiện có tại Việt Nam còn khá khiêm tốn và vẫn còn nhiều khoảng trống. Trước thực trạng danh mục tín dụng nói chung và danh mục cho vay nói riêng tại các NHTM vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và vấn đề quản lý rủi ro tín dụng trên phạm vi danh mục cho vay chưa được chú trọng đúng mức đòi hỏi các NHTM Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong hoạt động này. Trong thời gian tới, các NHTM Việt Nam cần tập trung nghiên cứu và ứng dụng các nguyên lý, phương pháp trong việc xây dựng cơ cấu tổ chức, nhận diện rủi ro, đo lường rủi ro, sử dụng các công cụ để quản lý rủi ro trên danh mục cho vay theo hướng hiện đại hơn và phù hợp với các khuyến nghị, chuẩn mực quốc tế như Basel II, Basel III. Đây là những hoạt động góp phần quản lý danh mục cho vay một cách khoa học, toàn diện và có hiệu quả hơn; từ đó hướng tới mục tiêu cuối cùng là giảm thiểu rủi ro tín dụng cho NHTM.
Trong phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận án, tác giả đã thực hiện được các nội dung sau:
Thứ nhất, luận án đã tổng hợp các vấn đề lý luận thuộc nội dung quản lý rủi ro danh mục cho vay của NHTM bao gồm: cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro, nhận diện rủi ro, đo lường rủi ro và sử dụng các công cụ quản lý rủi ro. Với các nội dung này, luận án đã hệ thống hoá thành các nhóm vấn đề, nhóm phương pháp và nhóm công cụ giúp cho các NHTM có thể dễ dàng so sánh và lựa chọn sử dụng trên thực tiễn.
Thứ hai, luận án đã đưa ra các kinh nghiệm thực hiện quản lý rủi ro danh mục cho vay về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro, nhận diện rủi ro, đo lường rủi ro và sử dụng các công cụ quản lý rủi ro tại các NHTM ở bốn quốc gia: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Hoa Kì. Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm này, luận án đã đưa ra hệ thống giải pháp để hoàn thiện quản lý rủi ro danh mục cho vay đối với các NHTM Việt Nam.
Thứ ba, luận án đã khái quát thực trạng cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro, nhận diện rủi ro, đo lường rủi ro và sử dụng các công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM Việt Nam thông qua mẫu nghiên cứu gồm 16 NHTM chia thành
hai nhóm có sự khác biệt về trình độ và năng lực quản lý rủi ro tín dụng. Đây là cơ sở thực tiễn để luận án đánh giá thực trạng quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM Việt Nam, đồng thời có sự so sánh giữa hai nhóm NHTM và đối chiếu với các chuẩn mực quốc tế, qua đó giúp đưa ra đánh giá về kết quả đạt được cũng như những hạn chế và tồn tại trong quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các NHTM Việt Nam hiện nay. Để đưa ra được các đánh giá này, luận án vận dụng hai phương pháp chính là khảo sát và phỏng vấn chuyên sâu chuyên gia.
Thứ tư, dựa trên các đánh giá về thực trạng ở trên, luận án đã đưa ra hệ thống giải pháp và kiến nghị về các nội dung quản lý rủi ro danh mục cho vay đối với các NHTM Việt Nam và NHNN - với vai trò điều hành, quản lý vĩ mô các NHTM trong hệ thống. Đặc biệt trong nội dung này, luận án vận dụng phương pháp mô phỏng hoá vấn đề nghiên cứu bằng việc sử dụng hai phương pháp là FIRB và Credit Metrics để mô phỏng đo lường rủi ro danh mục cho vay của NHTM. Điều này giúp cho các NHTM Việt Nam có cách tiếp cận rõ ràng hơn và từ đó vận dụng phù hợp hơn các giải pháp, kiến nghị được đưa ra.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, luận án vẫn còn một số hạn chế như sau: Một là, luận án chưa bao quát toàn diện được đầy đủ các nội dung của quản lý rủi ro danh mục cho vay. Do phạm vi nghiên cứu nên một số nội dung chưa được thực hiện trong luận án này như: chính sách quản lý rủi ro, khẩu vị rủi ro, giám sát và đánh giá kết quả quản lý rủi ro danh mục cho vay.
Hai là, do hạn chế về dữ liệu và thông tin thu thập được nên luận án chưa đánh giá đầy đủ thực trạng quản lý rủi ro danh mục cho vay tại tất cả các NHTM trong hệ thống. Mẫu nghiên cứu trong luận án chỉ bao gồm 16 NHTM Việt Nam được lựa chọn.
Ba là, hai phương pháp được luận án sử dụng để mô phỏng đo lường rủi ro danh mục cho vay là FIRB và Credit Metrics cần sử dụng các giả thiết, điều này có thể chưa phù hợp trong mọi bối cảnh trên thực tế hoạt động tín dụng của NHTM. Hơn nữa, với hạn chế khi thu thập dữ liệu chi tiết về danh mục cho vay của NHTM, cùng với hạn chế về phần mềm sử dụng, việc mô phỏng này chỉ thực hiện được trên các danh mục cho vay được giả định của NHTM với số lượng khoản vay không quá lớn. Do vậy kết quả tính toán được về mức độ rủi ro