Nguyên tắc số 3:Các ngân hàng cần nhận diện và quản lý rủi ro tín dụng trong tất cả các sản phẩm và hoạt động. Các ngân hàng cần đảm bảo các sản phẩm và dịch vụ mới đều được kiểm soát bằng các quy trình hiện tại trước khi chúng được giới thiệu và cần được chấp thuận trước bởi ban điều hành hoặc các uỷ ban có trách nhiệm.
Cơ sở cho một quy trình quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả là sự nhận diện và phân tích những rủi ro hiện có và tiềm tàng trong bất kì sản phẩm hay hoạt động nào. Những nhận diện này xuất phát từ nguyên tắc thận trọng trong quản lý rủi ro tín dụng. NHTM còn cần phát triển những hiểu biết về các loại rủi ro tín dụng liên quan tới những hoạt động cấp tín dụng phức tạp (ví dụ như khoản vay của từng lĩnh vực cụ thể, chứng khoán hoá, quyền chọn, phái sinh tín dụng, trái phiếu liên kết tín dụng…). Bởi rủi ro tín dụng trong những sản phẩm này thường không dễ dàng để nhận biết và yêu cầu sự phân tích tỉ mỉ, khó khăn hơn những hoạt động cấp tín dụng truyền thống. Ngoài ra, NHTM cần phải đảm bảo rằng rủi ro liên quan tới những sản phẩm, dịch vụ, hoạt động mới phù hợp với quy trình và giám sát hiện tại trước khi chúng được công bố và vận hành. Đặc biệt, những sản phẩm dịch vụ mới đều phải được chấp thuận bởi ban điều hành hoặc tỷ lệ hợp lý của một nhóm nhà quản lý.
1.1.2.2. Nhóm nguyên tắc về thiết lập quy trình cấp tín dụng có hiệu quảNguyên tắc số 4: Ngân hàng cần có hệ thống phân loại khách hàng vay một cách có chất lượng. Những tiêu chuẩn phân loại nợ cần được xây dựng thông qua việc am hiểu khách hàng vay hoặc bên đối tác, cũng như mục tiêu, cấu trúc và nguồn trả nợ của hợp đồng tín dụng.
Việc thiết lập các tiêu chuẩn cấp tín dụng là cần thiết để có hoạt động tín dụng an toàn và hiệu quả. Các tiêu chuẩn cần chỉ ra những đối tượng sẽ được cấp tín dụng, cấp bao nhiêu, hình thức cấp tín dụng là gì, các điều kiện và điều khoản để cấp tín dụng được. Tuỳ thuộc vào hình thức và bản chất của quan hệ tín dụng, các yếu tố nên được cân nhắc khi chấp thuận cấp tín dụng bao gồm:
-Mục đích vay vốn và nguồn trả nợ
-Mức độ rủi ro hiện tại (bao gồm các loại rủi ro và tổng mức rủi ro) của khách hàng hoặc bên đối tác và tài sản bảo đảm, độ nhạy cảm của chúng với các điều kiện kinh tế, thị trường bên ngoài
- Lịch sử trả nợ của khách hàng và năng lực trả nợ hiện tại, dựa theo xu hướng tài chính trong quá khứ và kế hoạch dòng tiền theo các kịch bản khác nhau của khách hàng
- Kì hạn dự tính và những điều kiện để cấp tín dụng, bao gồm những điều khoản được thiết kế để giới hạn những thay đổi trong mức độ rủi ro của khách hàng
- Trong trường hợp cần thiết là tính tương xứng và năng lực của tài sản bảo đảm Tất cả những thông tin trên là căn cứ để NHTM ra quyết định cấp tín dụng cũng như xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mình. Ngoài ra, khi cân nhắc rủi ro của khách hàng, NHTM phải tính tới cả những nhóm khách hàng có liên quan về tài chính, quan hệ thương mại, sở hữu, quản lý, nhân thân… Nguyên tắc số 5: Ngân hàng nên thiết lập giới hạn tín dụng cho các cấp độ: cá nhân, đối tác, nhóm khách hàng có liên quan cho tất cả các giao dịch tại sổ kinh doanh và sổ ngân hàng, nội bảng và ngoại bảng.
Một nhân tố quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng là thiết lập các hạn mức tổn thất cho từng khách hàng riêng lẻ và nhóm khách hàng có liên quan. Các hạn mức này thông thường được đưa ra dựa theo kết quả xếp hạng tín dụng của khách hàng, theo đó khách hàng có hạng tín dụng càng cao sẽ có hạn mức rủi ro tín dụng càng cao.Việc thiết lập hạn mức rủi ro còn giúp cho việc cấp tín dụng của ngân hàng tránh phải rủi ro tập trung tín dụng. Công cụ hữu hiệu để tính toán các hạn mức là đi đo lường các tổn thất tiềm tàng của khách hàng, có tính tới tất cả các hoạt động của khách hàng với ngân hàng, từ đó thiết lập các giới hạn tối đa cho từng khách hàng. Ngoài ra, NHTM có thể cân nhắc kĩ thuật kiểm tra sức chịu đựng (stress test) để đưa ra các giới hạn và thiết lập quy trình giám sát.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhóm Kiến Nghị Cho Nhnn Với Tư Cách Là Cơ Quan Quản Lý, Giám Sát Hoạt Động Mua Bán Nợ
- Quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 26
- Các Nguyên Tắc Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Theo Basel Ii
- Mô Hình “Ba Tuyến Phòng Vệ” Trong Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Tại Nhtm
- Quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 30
- Quản lý rủi ro danh mục cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 31
Xem toàn bộ 252 trang tài liệu này.
Nguyên tắc số 6:Ngân hàng nên có quy trình rõ ràng về việc cấp tín dụng mới cũng như mở rộng các giới hạn tín dụng hiện tại.
Rất nhiều cán bộ của NHTM sẽ tham gia vào quy trình cấp tín dụng, từ khởi tạo tín dụng, phân tích tín dụng, phê duyệt tín dụng cho tới quản lý rủi ro… Do vậy NHTM cần có phương thức gán trách nhiệm cho các nhân viên của mình hiệu quả và cần có cơ chế khuyến khích nỗ lực của các nhân viên sao cho ra được quyết định cấp tín dụng đúng đắn cuối cùng.Với mục đích duy trì một danh mục tín dụng hiệu quả, NHTM phải thiết lập khuôn mẫu đánh giá và quy trình phê duyệt cho việc cấp tín dụng. Việc phê duyệt nên song hành với hướng dẫn của ngân hàng và được chấp thuận bởi những cấp quản lý phù hợp. Các NHTM thông thường sẽ lập ra một nhóm chuyên gia để ra phân tích và phê duyệt với các khoản tín dụng thuộc các loại sản phẩm dịch vụ, ngành nghề, khu vực địa lý riêng biệt. Uỷ ban Basel cũng khuyến nghị các NHTM nên đầu tư tương xứng vào khâu ra quyết định cấp tín dụng, đặc biệt là trình độ nhận sự, để đảm bảo các quyết định cấp tín dụng được đưa ra kịp thời về mặt thời điểm, mức giá, cơ cấu danh mục và chiến lược hoạt động tín dụng của NHTM, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Nguyên tắc số 7:Việc mở rộng các giới hạn tín dụng cần phải được xây dựng cẩn trọng. Đặc biệt, cần có những bước đi cần thiết để giám sát và giảm thiểu rủi ro cho những khoản tín dụng có liên quan.
Việc mở rộng tín dụng nên phù hợp với các nguyên tắc đã được nêu phía trên. Điều này sẽ giúp tạo ra một hệ thống ra quyết định cấp tín dụng được cân bằng và có sự giám sát chặt chẽ. Điều này còn giúp cho các nhà quản lý cấp cao trong ngân hàng và những bên có liên quan (đặc biệt là các cổ đông của ngân hàng) không mất quá nhiều công sức để giám sát hoạt động cấp tín dụng.
1.1.2.3. Nhóm nguyên tắc về duy trì hệ thống quản lý tín dụng, đo lường và quy trình giám sát thích hợp
Nguyên tắc số 8:Ngân hàng nên duy trì hệ thống quản lý cho những danh mục tín dụng có rủi ro ngày một đa dạng.
Quản lý tín dụng là yếu tố quan trọng hàng đầu để duy trì một hệ thống ngân hàng an toàn và hiệu quả. Với những ngân hàng quy mô lớn, nhiệm vụ quản lý
tín dụng thường được giao cho nhiều bộ phận khác nhau, nhưng với ngân hàng quy mô nhỏ hơn, một vài cá nhân hoặc bộ phận có thể đảm nhiệm tất cả các chức năng của quản lý tín dụng. Để làm tốt chức năng quản lý tín dụng, NHTM nên đảm bảo:
- Có các hoạt động quản lý tín dụng hiệu quả và hiệu lực, bao gồm các tài liệu giám sát, các yêu cầu về hợp đồng, các điều khoản pháp lý, tài sản bảo đảm…
- Sự chính xác và kịp thời của các thông tin được nhập vào hệ thống thông tin quản lý (MIS)
- Có sự phân quyền hợp lý
- Có các kiểm soát thích hợp với tất cả các quy trình “back office”
- Tuân thủ với các chính sách và quy trình quản lý cũng như luật pháp và quy định
Nguyên tắc số 9:Ngân hàng nên duy trì hệ thống giám sát các điều kiện về các khoản tín dụng riêng lẻ, bao gồm xác định tính phù hợp của các khoản dự phòng và dự trữ.
NHTM nên phát triển và thực thi các thủ tục và hệ thống thông tin thích hợp để giám sát các điều kiện của các khách hàng vay riêng lẻ cũng như từng khoản tín dụng riêng lẻ trong số rất nhiều các danh mục tín dụng của mình, từ đó đưa ra các hành động thích hợp, phân loại nợ và dự phòng.
Hệ thống giám sát tín dụng hiệu quả sẽ bao gồm các phương tiện để:
- Đảm bảo NHTM thấu hiểu điều kiện tài chính hiện tại của khách hàng vay hoặc bên đối tác
- Giám sát tính tuân thủ với các điều khoản hiện tại
- Đánh giá khi cần thiết tính thích hợp của tài sản thế chấp với các điều kiện hiện tại của người vay
- Xác định các vấn đề về nợ khó đòi và phân loại các vấn đề tín dụng tiềm tàng kịp thời
Nguyên tắc số 10:Ngân hàng nên phát triển và tận dụng tối đa hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng. Hệ thống xếp hạng nên phù hợp với bản chất, quy mô và độ phức tạp của các hoạt động ngân hàng.
Một công cụ quan trọng để giám sát chất lượng của các khoản tín dụng riêng lẻ cũng như toàn bộ danh mục tín dụng là sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Một hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ được cấu trúc tốt sẽ là công cụ hữu hiệu để phân loại các mức độ rủi ro tín dụng trong ngân hàng. Hơn nữa, công cụ này còn giúp nhận diện chính xác hơn các đặc tính tổng thể của danh mục tín dụng như mức độ tập trung hoá, các vấn đề tín dụng hay sự đầy đủ của các khoản dự phòng.
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ sẽ phân loại tín dụng thành các mức độ rủi ro khác nhau. Các hệ thống đơn giản hơn sẽ có các hạng tín dụng dựa theo các tiêu chí khác nhau từ mức độ thoả mãn tới không thoả mãn (đây là “phương pháp tiêu chuẩn”- Standardized Approach). Với các hệ thống phát triển hơn, NHTM phải tự quyết định mức độ rủi ro của khách hàng vay hoặc bên đối tác dựa theo các đặc tính riêng có của từng giao dịch (“phương pháp dựa theo xếp hạng nội bộ” - Internal Rating Based).
Nguyên tắc số 11:Ngân hàng phải có hệ thống thông tin và các kĩ thuật phân tích để đảm bảo đo lường tất cả các loại rủi ro cả nội và ngoại bảng. Hệ thống thông tin quản lý nên cung cấp các thông tin tương xứng về cấu trúc của danh mục tín dụng, bao gồm nhận diện rủi ro tập trung danh mục.
Ngoài việc có các phương pháp để lượng hoá mức độ rủi ro với từng khoản tín dụng riêng lẻ, NHTM nên có các kĩ thuật phân tích tín dụng trên cấp độ toàn danh mục để nhận diện mức độ nhạy cảm hoặc tính đa dạng hoá. Công cụ để đo lường rủi ro tín dụng nên cân nhắc tới các vấn đề sau:
- Bản chất cụ thể của các hình thức cấp tín dụng (cho vay, phái sinh, cho thuê tài chính…)
- Các điều khoản và điều kiện tài chính (kì hạn, lãi suất tham chiếu…)
- Mức độ rủi ro khi tới hạn nếu thị trường có sự thay đổi
- Tính chắc chắn của tài sản bảo đảm
- Các tổn thất tín dụng tiềm tàng dựa theo kết quả xếp hạng tín dụngNguyên tắc số 12:Ngân hàng phải có tại chỗ hệ thống để giám sát toàn bộ cơ cấu và chất lượng của danh mục tín dụng
Thông thường, các NHTM quan tâm tới giám sát một khoản tín dụng riêng lẻ hơn là toàn bộ danh mục. Mặc dù việc tập trung này là quan trọng, nhưng NHTM vẫn cần có hệ thống để quản lý toàn bộ các cấu phần và chất lượng của các danh mục tín dụng khác nhau. Hệ thống này tuỳ thuộc vào quy mô, bản chất, mức độ phức tạp của các danh mục của ngân hàng.
Một vấn đề rủi ro tín dụng thường xuyên phải đối mặt là tập trung danh mục tín dụng. Việc tập trung này biểu hiện dưới nhiều hình thức và sẽ gia tăng khi gia tăng số lượng của các khoản tín dụng riêng lẻ có cùng đặc tính (tương quan rủi ro tín dụng cùng chiều). Rủi ro tập trung danh mục xảy ra khi danh mục bao gồm số lượng lớn các khoản cấp tín dụng trực tiếp hoặc gián tiếp (i) cho từng đối tượng khách hàng riêng lẻ, (ii) cho một nhóm khách hàng có liên quan, (iii) cho cùng một ngành công nghiệp hoặc một lĩnh vực, (iv) cho một khu vực địa lý, (v) cho một quốc gia hay một nhóm quốc gia có liên hệ mật thiết về lợi ích,
(vi) cho một hình thức cấp tín dụng, (vii) cấp tín dụng với cùng một loại tài sản bảo đảm, (viii) cùng một kì hạn trả nợ…Mức độ tập trung tín dụng càng lớn thì NHTM sẽ càng gặp rủi ro lớn nếu có các bất lợi từ bên ngoài.
Trong rất nhiều trường hợp, do chiến lược kinh doanh, khu vực địa lý… mà việc giảm thiểu mức độ tập trung hoá danh mục tín dụng của NHTM là rất khó khăn. Thêm vào đó các NHTM thường chỉ muốn chuyên môn hoá vào một số ngành nghề, lĩnh vực mà mình có thế mạnh. Trong những tình huống như vậy, NHTM sẵn sàng chấp nhận các rủi ro liên quan tới tập trung danh mục và có các kĩ thuật để giảm thiểu, ví dụ như chính sách giá để bù đắp rủi ro, tăng vốn dự trữ, cho vay hợp vốn hoặc các công cụ hiện đại hơn như mua bán nợ, phái sinh tín dụng, chứng khoán hoá các khoản vay…Dù vậy, rủi ro tập trung hoá vẫn luôn cần
được nhận diện và quản lý và nếu NHTM muốn sử dụng các công cụ như trên để quản lý thì cần có hệ thống kiểm soát tương xứng.
Nguyên tắc số 13:Các ngân hàng luôn cần phải lưu tâm tới các thay đổi tiềm năng trong tương lai về các điều kiện kinh tế khi đánh giá các khoản tín dụng riêng lẻ và danh mục tín dụng, ngoài ra nên đánh giá rủi ro tín dụng với các điều kiện tiêu cực được giả định (stress-test)
Một yếu tố quan trọng để quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả là thường xuyên phải xem xét các sự kiện xấu có thể xảy ra với các khoản tín dụng riêng lẻ và với cả danh mục, sau đó đưa các thông tin này vào phân tích để có các kế hoạch dự phòng và dự trữ vốn thích hợp. Công việc này sẽ giúp nhận diện các rủi ro tín dụng tiềm tàng cho ngân hàng. Kĩ thuật phân tích tình huống (scenario analysis) và kiểm tra sức chịu đựng (stress test) được xem là hai công cụ hữu ích để đánh giá các khu vực có rủi ro tiềm tàng.
1.1.2.4. Nhóm nguyên tắc về đảm bảo hệ thống kiểm soát tương thích cho tất cả rủi ro tín dụng
Nguyên tắc số 14:Các ngân hàng nên thiết lập hệ thống đánh giá tín dụng liên tục và độc lập, đặc biệt kết quả của những đánh giá này nên được thông báo trực tiếp tới ban điều hành và những nhà quản lý cấp cao.
Tại NHTM có thể có nhiều cá nhân được cấp thẩm quyền khi xem xét cấp tín dụng cho khách hàng, do vậy NHTM nên có hệ thống đánh giá lại về quy trình cấp tín dụng và đưa ra các báo cáo. Hệ thống đánh giá nên cung cấp cho các nhà quản lý cấp cao đầy đủ thông tin để đánh giá chất lượng làm việc của các cán bộ phụ trách khoản vay và chất lượng của danh mục tín dụng. Hệ thống đánh giá lại tín dụng sẽ được điều hành bởi những cá nhân độc lập với chức năng kinh doanh, giúp đưa ra các đánh giá về quy trình quản lý danh mục tín dụng, tính chính xác của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và cán bộ tín dụng có làm tốt vai trò giám sát tín dụng hay không. Chức năng giám sát tín dụng này sẽ được báo cáo trực tiếp lên hội đồng quản trị, uỷ ban kiểm soát và những nhà quản lý độc lập với quản lý tín dụng (thường là bộ phận quản lý rủi ro).
Nguyên tắc số 15: Ngân hàng nên đảm bảo rằng chức năng cấp tín dụng được quản lý chính xác và rủi ro tín dụng chỉ nằm trong giới hạn cho phép của ngân hàng và tại mức phù hợp với những tiêu chuẩn về an toàn. Ngân hàng nên thành lập và đẩy mạnh kiểm soát nội bộ cũng như các hành động khác để đảm bảo các chính sách, quy trình, giới hạn được báo cáo kịp thời tới những cấp quản lý thích hợp.
Mục tiêu của quản lý rủi ro tín dụng là duy trì mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng trong các giới hạn được thiết lập bởi ban điều hành. Việc thành lập và duy trì các kiểm soát nội bộ, các giới hạn và các quy định khác sẽ giúp đảm bảo rủi ro tín dụng không vượt quá các ngưỡng có thể chấp nhận được. Các giới hạn này sẽ giúp nhà quản lý giám sát được rủi ro tín dụng, nhận biết được các cơ hội và rủi ro và giám sát được các rủi ro thực tế trong tương quan với khẩu vị rủi ro cho phép. Kiểm soát nội bộ cũng nên được tiến hành định kì để xác định các hoạt động tín dụng nào tuân thủ các quy định và thủ tục của ngân hàng và được chấp thuận bởi các cấp quản lý thích hợp; việc định giá, chất lượng và sự tồn tại của các khoản tín dụng có đúng như báo cáo của các nhà quản lý hay không. Ngoài ra, kiểm toán nội bộ còn giúp xác định các khu vực yếu điểm trong quy trình quản lý rủi ro tín dụng.
Nguyên tắc số 16:Ngân hàng nên có hệ thống tại chỗ để xử lý các vấn đề trong cấp tín dụng và những phát sinh rất đa dạng của hoạt động này.
Chính sách tín dụng của ngân hàng nên chỉ rõ cách thức ngân hàng phải thực hiện để giải quyết các vấn đề tín dụng. Phương pháp và cách thức tổ chức bộ máy để thực hiện công việc này là khác nhau giữa các ngân hàng tuỳ thuộc quy mô, bản chất của hoạt động tín dụng và nguyên nhân tạo ra vấn đề phát sinh; tuy nhiên thông thường trách nhiệm sẽ được quy cho bộ phận chịu trách nhiệm khởi tạo khoản vay và/hoặc bộ phận tác nghiệp. Trong những tình huống xấu, cách thức giải quyết vấn đề nên là đầu tư thêm nguồn lực, chuyên gia và tập trung quản lý vào bộ phận tác nghiệp để tối đa hoá số nợ thu hồi được và cho ra các gợi ý để thay đổi chính sách, chiến lược tín dụng nếu cần thiết.