Một số chi nhánh thu vượt kế hoạch trung ương giao như chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tĩnh, Hải Phòng, Bắc Giang, Hà Nam, Quảng Trị, Quảng Nam, Lâm Đồng, Tây Ninh, Bà Rịa- Vũng Tàu… Tuy nhiên, còn có một số chi nhánh thu hồi nợ đã xử lý rất thấp, chủ yếu là đối với các khoản nợ rủi ro của các DNNN làm ăn thua lỗ, phá sản như chi nhánh Sài Gòn, chi nhánh Quảng Bình, chi nhánh Cần Thơ, chi nhánh Long An…
Mặc dù vậy, tỷ lệ các khoản thu hồi nợ sau xử lý rủi ro tính trên số nợ đã xử lý rủi ro bằng quỹ dự phòng lũy kế không được cải thiện đáng kể, điều này một phần phản ánh sự khó khăn trong công tác thu hồi nợ xấu ngoại bảng do các đối tượng vay đã không còn khả năng trả nợ và buộc phải xóa nợ.
Qui mô nợ xấu không tăng mạnh như những tháng đầu năm 2012 là nhờ NHNN và NHNNo &PTNT Việt Nam đã chủ động triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm quản lý nợ xấu, trong đó ba giải pháp chủ yếu có tác động tích cực là giữ nguyên nhóm nợ với những khoản nợ được cơ cấu lại (theo Quyết định 780/QĐ-NHNN), trích lập và sử dụng DPRR để xử lý nợ xấu và bán nợ xấu cho VAMC.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh song NHNNo &PTNT Việt Nam vẫn tích cực trích lập DPRR để tạo nguồn xử lý nợ xấu và đã chủ động xử lý và đưa ra theo dõi ngoại bảng số nợ xấu đã xử lý. Đồng thời, VAMC đi vào hoạt động và thực hiện mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng cũng góp phần làm giảm qui mô nợ xấu của NHNNo &PTNT Việt Nam. Việc bán nợ cho VAMC thu về trái phiếu đặc biệt, chỉ phải trích lập dự phòng rủi ro 20% thay vì tỷ lệ 50-100% cho các khoản nợ nhóm 4,5 và khi cần có thể chiết khấu tại NHNN trong thời gian vừa qua đã giúp cho NHNo&PTNT Việt Nam giải quyết khá nhiều gánh nặng về tài chính.
Việc quản lý nợ xấu đã được các chi nhánh trong hệ thống quan tâm sát sao, các khoản nợ rủi ro có vấn đề đã được chuyển sang nợ xấu kịp thời và trích lập theo đúng tỷ lệ trích qui định.
Công tác thông tin báo cáo được duy trì thường xuyên và tương đối chính xác, kịp thời do đó Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam luôn nắm chắc được tình hình trích lập và xử lý rủi ro của toàn hệ thống. Từ đó, có các biện pháp chỉ đạo tích cực và kịp thời.
Ý thức được vai trò của việc trích lập dự phòng, các chi nhánh ngày càng có trách nhiệm hơn trong việc trích lập và xử lý rủi ro. Do đó số trích lập dự phòng rủi ro ngày càng phản ánh chính xác chất lượng nợ của NHNo&PTNT Việt Nam
Qua công tác tổng hợp kết quả phân loại tài sản “Có”, trích lập dự phòng, xử lý rủi ro cho thấy công tác trích lập dự phòng, xử lý rủi ro của các chi nhánh đơn vị trong toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam đã đi vào nề nếp, các chi nhánh đơn vị đều chú trọng đến công tác trích lập dự phòng, xử lý rủi ro. Trong toàn hệ thống, một số chi nhánh trích lập dự phòng lớn trong năm 2014 như chi nhánh Đà Nẵng (368 tỷ đồng); chi nhánh Bạc Liêu (554 tỷ đồng); chi nhánh Hà Nội (244 tỷ đồng)…
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Quản Lý Nợ Xấu Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Khái Quát Mô Hình Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Nhno&ptnt Việt Nam
- Tình Hình Thanh Lý Nợ Xấu Của Nhno&ptnt Việt Nam Giai Đoạn 2010 - 2014
- Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 17
- Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 18
- Định Hướng Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam Trong Giai Đoạn 2015 - 2020
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
Thứ tư, tốc độ gia tăng nợ xấu được kiểm soát, tốc độ gia tăng nợ xấu/tốc độ tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm
Tốc độ gia tăng nợ xấu trong giai đoạn 2010 -2014 giảm từ 76,04% năm 2010 xuống còn 23,18% năm 2013, 3,27% năm 2014 đã chứng tỏ nỗ lực của toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam đã được đền đáp. Tỷ lệ nợ xấu giảm mạnh, nằm trong tầm kiểm soát của ngân hàng cho thấy công tác quản lý nợ xấu đã có nhiều ảnh hưởng tích cực. Nhận định này còn được khẳng định hơn nữa khi xem xét tốc độ gia tăng nợ xấu/tốc độ tăng trưởng tín dụng khi tỷ lệ này giảm từ 10,77% (2011) xuống 2,22% (2013) và 0,22% (2014), thậm chí năm 2012 tỷ lệ này còn ở mức -2,99%. Mặc dù vậy, đối với thực trạng tại NHNo&PTNT Việt Nam xu hướng này cần được xem xét một cách cẩn trọng hơn khi các tình hình phân loại nợ xấu, phòng ngừa rủi ro còn ẩn chứa nhiều vấn đề cần giải quyết.
3.4.2. Những điểm còn hạn chế và nguyên nhân
Thứ nhất, tỷ lệ nợ xấu còn cao
Mặc dù NHNo&PTNT Việt Nam thường xuyên hoàn thiện và áp dụng hàng loạt các biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay, nhưng nhiều khoản nợ xấu mới vẫn phát sinh, tỷ lệ nợ xấu trong năm luôn cao rất nhiều so với tỷ lệ nợ xấu mục tiêu mà NHNo&PTNT Việt Nam đề ra, cao hơn tỷ lệ nợ xấu mà NHNN khuyến nghị. Hạn chế này ảnh hưởng rất lớn thương hiệu, uy tín của NHNo&PTNT Việt Nam.
Thứ hai, việc nhận diện, đo lường và đánh giá nợ xấu thiếu chính xác, không cập nhật, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế dẫn đến nợ xấu chưa được phản ánh đúng bản chất rủi ro của khoản nợ, trích dự phòng rủi ro chưa đầy đủ
Mặc dù là khâu quan trọng trong hoạt động quản lý nợ xấu nhưng công tác nhận diện, phân loại nợ xấu vẫn chưa được thực hiện tốt, nhiều khoản nợ khó có khả năng thu hồi, giá trị lớn vẫn đang nằm trong nhóm 1,2 mà chưa được đưa vào nhóm nợ xấu
để có biện pháp xử lý phù hợp. Các hiện tượng như nhập thiếu thông tin về báo cáo tài chính, sai lệch thông tin kỳ hạn trả nợ trả nợ giữa hồ sơ trên hệ thống và hồ sơ giấyvẫn còn xảy ra phổ biến. Điều này dẫn đến các bộ phận xử lý nợ không có đầy đủ cơ sở để phân loại nợ chính xác. Ngân hàng chưa có cơ chế cập nhật thông tin kịp thời về khách hàng, hệ thống chấm điểm khách hàng chưa tạo ra những cơ sở khách quan, tin cậy để đánh giá khách hàng một cách chính xác.
Do vậy, có thể nói rằng công tác nhận diện, đo lường nợ xấu hiện nay ở NHNo&PTNT vẫn còn là vấn đề lớn khi hầu hết các ngân hàng đều đã và đang tiếp cận với thông lệ quốc tế.
Thứ ba, hoạt động phát hiện, giám sát, ngăn ngừa nợ xấu chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, mô hình quản trị rủi ro còn nhiều bất cập.
Môi trường kiểm soát mặc dù được NHNo&PTNT Việt Nam đầu tư rất nhiều nhưng vẫn chưa tạo được môi trường lành mạnh làm nền tảng tốt cho hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu quả. Mặc dù được tổ chức theo mô hình Tổng công ty nhưng mức độ độc lập của các chi nhánh và các công ty trực thuộc của ngân hàng còn tương đối hạn chế. Sự phân cấp, phân quyền hội đồng quản trị với tổng giám đốc, giữa giám đốc các Ban ở hội sở chính với giám đốc các đơn vị đã có nhưng chưa rõ ràng và chưa gắn trách nhiệm cụ thể. Sự chồng chéo trong điều hành và tác nghiệp giữa các bộ phận vẫn diễn ra thường xuyên. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp, quyền hạn đã phân cấp không được sử dụng hết hoặc bị lạm dụng.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hệ thống kiểm soát nội bộ của NHNo&PTNT Việt Nam còn yếu kém trong việc phát hiện và ngăn chặn các gian lận và sai sót trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung, kiểm soát nội bộ mới chỉ có ý nghĩa phát hiện, chưa có tác dụng hoàn thiện, chưa phát huy vai trò cảnh báo rủi ro.
Mô hình quản trị rủi ro tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam theo mô hình phân tán còn tồn tại, hạn chế như việc kiểm soát không được khách quan, hạn chế tính minh bạch. So với sự phát triển vượt bậc về công nghệ ngân hàng, sự thay đổi về quản trị ngân hàng tại NHNo&PTNT Việt Nam trong thời gian qua là không đáng kể. Trong khi nhiều ngân hàng khác (BIDV, Vietinbank, Vietcombank, ACB, MB...) đã có những bước đi mạnh mẽ trong việc áp dụng các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế trong quản trị rủi ro tín dụng thì mô hình quản trị rủi ro tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam vẫn không có sự thay đổi lớn so với nhiều năm trước và đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Hoạt động tín dụng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro cao dẫn đến nguy cơ nợ xấu phát sinh và xử lý không hiệu quả do dư nợ tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam cao trong khi chất lượng tín dụng còn hạn chế.
Thứ tư, công tác xử lý nợ xấu chậm, chưa thực sự mạng lại hiệu quả, chưa xử lý dứt điểm rủi ro và tổn thất
- Đối với các biện pháp khai thác nợ: Trong thời gian vừa qua, biện pháp khai thác nợ chủ yếu vẫn là cơ cấu lại nợ, đặc biệt là sau khi Quyết định số 780/QĐ-NHNN ngày 23/4/2012 có hiệu lực. Tuy nhiên một thực tế cho thấy, các khoản nợ cơ cấu lại chưa thực sự là những khoản nợ có khả năng phục hồi năng lực trả nợ tốt, chủ yếu là giải quyết những khó khăn trả nợ trước mắt, chưa đánh giá sát tình hình của khách hàng. Thực tế, tại NHNo&PTNT Việt Nam vẫn còn nặng tâm lý cơ cấu lại nhằm mục đích che dấu nợ xấu, làm sạch bảng cân đối kế toán hơn là để tạo cơ hội hỗ trợ cho các doanh nghiệp khôi phục năng lực trả nợ. Chính vì điều này nên các khoản nợ được cơ cấu lại chỉ tạm thời thoát khỏi danh mục nợ xấu song nguy cơ trở thành nợ xấu trong tương lai vẫn còn cao. Đặc biệt sau thông tư 09/2014/TT-NHNN ra đời thì nguy cơ tăng nợ xấu từ các khoản nợ cơ cấu lại còn rất lớn vì các khoản nợ đã cơ cấu lại không còn cơ hội cơ cấu, vì vậy nếu không trả được nợ sẽ trở hiện nguyên bản chất nợ xấu. Những biện pháp như tư vấn, hỗ trợ thu hồi công nợ cho khách hàng có tác động rất lớn đến hiệu quả thu hồi nợ xấu nhưng tại NHNo&PTNT Việt Nam không được chú trọng.
- Đối với các biện pháp thanh lý nợ: Các biện pháp thanh lý nợ xấu vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa xử lý dứt điểm nợ xấu.
Đối với bán nợ cho VAMC, khoản nợ phải đủ các điều kiện: (i) khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản, trong đó, không dưới 65% tổng giá trị tài sản bảo đảm là bất động sản, bao gồm cả bất động sản hình thành trong tương lai; (ii) VAMC chỉ mua những khoản nợ từ 1 tỷ đồng trở lên với cá nhân, từ 3 tỷ đồng trở lên với tổ chức. Các khoản nợ đã bán cho VAMC chỉ được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt, NHNo&PTNT Việt Nam vẫn phải trích dự phòng. Và sau 5 năm VAMC không xử lý được sẽ trả lại cho ngân hàng. Trong khi đó tại NHNo&PTNT Việt Nam, các khoản vay có tài sản đảm bảo có trên 65% thường chỉ có ở các đơn vị kinh doanh bất động sản. Còn với các DN sản xuất kinh doanh, họ có đầu tư bất động sản nhưng thường rất tiết kiệm, họ có thể thuê đất nên kết cấu lượng tiền nằm trong tài sản đảm bảo đó là rất nhỏ. Chủ yếu các doanh nghiệp đầu tư vào nhà xưởng, máy móc, dây chuyền thiết bị... Do đó, với quy định 65% tài sản đảm bảo là bất động sản thì rất khó xử lý được nợ xấu.
Một vướng mắc nữa của NHNo&PTNT Việt Nam là do đặc thù chủ yếu cho vay hộ sản xuất, nên số hộ vay từ 1 tỷ đồng trở lên là rất ít. Do đó, với quy định của VAMC, NHNo&PTNT Việt Nam sẽ khó lòng xử lý được các khoản nợ xấu của các hộ sản xuất kinh doanh nhỏ. Chính vì các lý do trên, NHNo&PTNT Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế trong thu hồi nợ xấu.
Bên cạnh đó các khoản nợ bán cho VAMC NHNN&PTNT Việt Nam vẫn liên đới trách nhiệm; phải trích dự phòng đối với nợ xấu đã bán và có nguy cơ hoàn lại nợ nếu VAMC không xử lý được sau 5 năm. Việc bán nợ cho VAMC với giá thấp hơn dư nợ thực tế và nếu VAMC không xử lý được sẽ được hoàn lại cho ngân hàng sau 5 năm với nguyên giá mua sẽ đặt cho NHNo&PTNT Việt Nam những tổn thất rất lớn trong tương lai. Mặt khác, các khoản nợ xấu của NHNo&PTNT Việt Nam bán cho VAMC khi thực hiện đấu giá cũng gặp nhiều trở ngại, có những khoản nợ đấu giá đến 7 lần mới thực hiện được, tốn rất nhiều chi phí và thời gian để xử lý nợ.
Xử lý thông qua khởi kiện và xử lý TSBĐ còn nhiều vướng mắc về thủ tục pháp lý, mất nhiều thời gian và chi phí. Nhiều khách hàng không hợp tác trong việc xử lý tài sản để thu hồi nợ, cố tình kéo dài thời gian trả nợ, thời gian bàn giao tài sản. Đối với tài sản thế chấp là nhà máy sản xuất quy mô lớn, mang tính chuyên ngành cao (như xi măng, dệt may, thủy sản...) khi xử lý tài sản thu hồi nợ gặp nhiều khó khăn vì không có khách hàng mua do tài sản có giá trị lớn và mang tính đặc thù. Bên canh đó, việc định giá tài sản trước khi cho vay không chính xác dẫn đến khi bán để thu hồi nợ thường bị tổn thất lớn.
Mặt khác, công tác trích lập và xử lý rủi ro chưa thực sự trở thành công cụ dự phòng hữu hiệu trong việc chống lưng cho các khoản nợ có khả năng mất vốn.
Do việc nhận diện nợ xấu chưa chính xác và sức ép của việc gia tăng chi phí đã làm cho công tác trích lập dự phòng rủi ro của NHNo&PTNT Việt Nam chưa hiệu quả, tỷ lệ trích thấp so với nợ xấu, tỷ lệ thu nợ sau xử lý rủi ro/tổng các khoản xử lý rủi ro lũy kế thấp.
Công tác trích lập dự phòng và xử lý rủi ro của NHNo&PTNT Việt Nam còn tồn tại một số bất cập, nguyên nhân là:
- Việc xác định dư nợ trích lập dự phòng rủi ro tại các chi nhánh chưa đầy đủ, chưa theo đúng tinh thần của NHNN do chưa quan tâm đầy đủ đến các yếu tố định tính.
- Các chi nhánh của NHNo&PTNT Việt Nam mặc dù đã có sự quan tâm sâu sát đến công tác trích lập song vẫn còn tồn tại một số chi nhánh thực hiện không chính xác, kịp thời... gây ảnh hưởng đến công tác tổng hợp và xử lý rủi ro chung của toàn hệ thống.
- Tại một số chi nhánh công tác thu hồi nợ chưa được quan tâm đúng mực, chưa đề ra các biện pháp triệt để, tích cực do đó nợ xấu còn cao.
Thứ năm, nợ xấu tập trung tại địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh,một số chi nhánh có nợ xấu và dư nợ tiềm ẩn rủi ro cao
Mặc dù NHNo&PTNT Việt Nam luôn đặt ra mục tiêu hướng tới cho vay nông nghiệp nông thôn tuy nhiên nợ xấu của hệ thống lại chủ yếu nằm ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, chiếm tỷ trọng gần 70%/tổng nợ xấu của toàn hệ thống. Đây là một thực trạng mà ngân hàng đang phải đối mặt và phải giải quyết hậu quả của nó trong một thời gian dài. Chủ yếu nợ xấu trên hai địa bàn này nằm ở các khoản vay dành cho các tập đoàn, các DNNN và lĩnh vực bất động sản. Sang năm 2015, nguy cơ nợ xấu ở 2 địa bàn này cũng khá cao, tập trung ở 1 số chi nhánh trên địa bàn như Mỹ Đình (1.002 tỷ), Sở Giao dịch (484 tỷ), Sài Gòn. Trong năm 2014, có trên 80 Chi nhánh có tỷ lệ nợ xấu trên 5%, trong đó đặc biệt có 27 chi nhánh có tỷ lệ nợ xấu trên 10% như Chi nhánh TP Hồ Chí Minh, Sở giao dịch... Tỷ lệ này rất đáng lo ngại cho cả hệ thống NHNo&PTNT. Khả năng mất vốn tại các chi nhánh cao, gây thất thoát tài sản, ảnh hưởng tới uy tín của thương hiệu Agribank.
Bên cạnh đó, đến đầu năm 2015 một số chi nhánh dự kiến nợ tiềm ẩn rủi ro cao như Sóc Trăng (2.030 tỷ), Hà Tây (1.409 tỷ), Cà Mau (940 tỷ), Bình Thuận (573 tỷ), Lâm Đồng (556 tỷ), Đồng Tháp (459 tỷ).
Các nguyên nhân chủ yếu:
Những nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, hệ thống luật pháp, các cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động xử lý nợ xấu của ngân hàng tuy đã được ban hành, tạo cơ sở pháp lý cho NHTM chủ động trong xử lý nợ xấu, nhưng còn chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và chưa bao quát được hết các tình huống có khả năng phát sinh trên thực tế.
Ví dụ như quyền sở hữu, quyền sử dụng, cơ chế chuyển nhượng, phát mại tài sản, những nguyên tắc về định giá, đấu giá... tài sản. Mặt khác, một số qui định, hướng dẫn của Chính Phủ, NHNN, các Bộ, Ngành về vấn đề trên còn chưa sát với thực tế, có
những yêu cầu khó có thể thực hiện được hoặc để thực hiện sẽ mất thời gian, làm chậm tiến độ xử lý nợ xấu của các NHTM, làm giảm bớt tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của NHTM... Những hạn chế này đã ảnh hưởng rất lớn tới công tác xử lý nợ xấu của các ngân hàng, góp phần giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng.
(i) Qui định về phân loại nợ ở Việt Nam còn có sự khác biệt với thông lệ quốc tế.
Ở Việt Nam hiện nay có hai tiêu chí cơ bản để phân loại nợ, tiêu chí định lượng. Trong đó tiêu chí định lượng dựa vào tình trạng của khoản nợ, tức là lịch sử thanh toán gốc và lãi của khách hàng nên phương pháp này được dùng để phân loại khi các khoản vay đã được giải ngân, còn tiêu chí định tính là tiêu chí được sử dụng ngay từ khi phê duyệt hồ sơ, bao gồm một hệ thống 14 chỉ tiêu tài chính, 40 chỉ tiêu phi tài chính, mỗi chỉ tiêu lại có trọng số khác nhau ứng với từng lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh và khi đó, tiêu chí định tính phát huy hiệu quả cao hơn, giúp cho NHTM có đầy đủ cơ sở đánh giá tiềm lực và khả năng thanh toán nợ của khách hàng một cách chính xác và đầy đủ hơn.
- Theo qui định của Việt Nam, trong thời gian qua hầu hết các NHTM trích dự phòng theo Điều 6 QĐ 493 (trừ 3 ngân hàng đã phân loại nợ theo Điều 7 của QĐ này) tức là theo cách tiếp cận định lượng sẽ tính nợ xấu bao gồm các khoản vay đã quá hạn trả nợ 91 ngày trở lên và khách hàng có dấu hiệu chưa trả lãi và gốc đúng hạn. Theo thông lệ quốc tế, nợ xấu bao gồm không chỉ các khoản vay quá hạn hơn 90 ngày mà còn bao gồm các khoản vay có dấu hiệu bị giảm giá trị (theo IAS 39), hoặc tính toán tới các yếu tố có thể làm mất mát khoản vay trong tương lai (Basel II). Ngoài ra, khi tính các chỉ số FSIs, IMF còn gộp cả những khoản nợ thay thế cho các khoản nợ cũ đã từng bị liệt kê vào các khoản nợ xấu. Điều này sẽ dẫn đến việc các khoản nợ xấu của các NHTM tính theo qui định của Việt Nam sẽ lớn hơn nếu được tính theo thông lệ quốc tế.
- Đối với một số NHTM của Việt Nam như NHNo&PTNT Việt Nam, nếu phân loại nợ theo Thông tư 02 của NHNN Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh NH nước ngoài, tức là theo cách tiếp cận định tính đã rất sát với thông lệ quốc tế, thì nợ xấu được tính toán cũng vẫn chưa ngang bằng với nợ xấu tính theo thông lệ quốc tế. Lý do là việc phân loại nợ xấu theo cách tiếp cận định tính sẽ phụ thuộc rất lớn vào kinh nghiệm hoạt động, đánh giá chủ quan của chính ngân hàng, và do hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ chuẩn mực, điều mà các NHTM Việt Nam non trẻ vẫn chưa thể tương
đồng với các NHTM lâu năm trên thế giới. Thêm vào đó, việc đánh giá khoản vay bị giảm giá trị hay tính toán các mất mát có thể xảy ra trong tương lai theo thông lệ quốc tế cũng đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải có một qui trình quản trị rủi ro và định giá tài sản ngân hàng thống nhất để phù hợp với việc phân loại nợ theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Chưa có một qui chuẩn chung về tiêu chí định tính, còn gọi là bộ xếp hạng tín dụng nội bộ của các TCTD. Hơn nữa, NHNN còn qui định khá chung chung, không có các hướng dẫn rõ ràng về việc áp dụng phương pháp định tính. Mặt khác, độ tin cậy của các cơ sở dữ liệu đầu vào từ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp cho việc chấm điểm tín dụng nội bộ còn rất hạn chế do thói quen tuân thủ pháp luật cũng như các chế tài đối với công tác kế toán, thống kê, kiểm toán... cũng còn nhiều bất cập. Do vậy, phân loại nợ theo điều 7 chưa thể triển khai theo đúng kỳ vọng.
- Việc xây dựng một hệ thống đánh giá xếp hạng tín nhiệm nội bộ đối với khách hàng khó thể thực hiện được một cách toàn diện và đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian, công sức.
Chính vì vậy việc phân loại nợ theo cả hai phương pháp định lượng và định tính có thể đẩy lượng nợ xấu hiện nay lên mức cao hơn, dẫn đến hiện tượng các TCTD phải trích lập dự phòng nhiều hơn. Trên thực tế, vẫn còn ít các các TCTD thực hiện phân loại nợ theo tiêu chí định tính hoặc sử dụng cả hai phương pháp mặc dù đây là tiêu chí khá toàn diện. NHNo&PTNT Việt Nam cũng không nằm trong số các NHTM thực hiện hiệu quả phân loại nợ theo cả hai phương pháp.
- Thách thức đối với NHNN trong việc nâng cao năng lực giám sát và thực thi các qui định về phân loại nợ, đảm bảo an toàn hoạt động cho toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Tình trạng nợ xấu của NHNo&PTNT Việt Nam trên thực tế có thể còn xấu hơn so với báo cáo và có thể còn cao hơn trong năm 2014 khi nhiều khoản nợ xấu chưa được phân loại nhờ ưu đãi từ Quyết định 780/2012/QĐ-NHNN sẽ được phản ánh chính xác hơn trong Thông tư 02/2013/TT-NHNN về phân loại tài sản có được áp dụng kể từ tháng 6/2014 với cách thức phân loại nợ chặt chẽ hơn. Đây sẽ là thách thức lớn đối với NHNN trong quá trình xử lý nợ xấu với mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 3% vào năm 2015.
Theo Quyết định 780/2012/QĐ-NHNN, đối với các doanh nghiệp có triển vọng phục hồi sản xuất nhưng đang gặp khó khăn về tài chính, khi tiến hành gia hạn nợ, được phép giữ nguyên nhóm nợ của doanh nghiệp này, như đã được phân loại theo qui