Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 18


Thứ năm, do trình độ quản lý yếu kém của các tập đoàn kinh tế Nhà nước.

Trong số đó, điển hình là nợ xấu của NHTM Việt Nam tại Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin). Số liệu của NHNN đưa ra tại phiên điều trần của Ủy ban Kinh tế quốc hội ngày 25/12/2010 thì số nợ gốc của Vinashin tại các NHTM là 18.000 tỷ đồng. Theo đó số nợ của Vinashin tại các NHTM lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng, chủ yếu là nợ quá hạn. Đó chưa kể tới số nợ tại Công ty Cho thuê Tài chính II của NHNo&PTNT Việt Nam, số nợ của một số tập đoàn khác.

Số nợ xấu từ các DNNN đều chiếm tỷ lệ cao tại NHNo&PTNT Việt Nam cũng như các TCTD khác tại Việt Nam. Có đến 70% nợ xấu là nợ của các DNNN do đây là nhóm có nhiều thuận lợi trong tiếp cận tín dụng và chiếm thị phần lớn trong tổng dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế. Hầu hết các DNNN đều có chi phí vốn vay lớn, thậm trí quá lớn, trong khi doanh thu giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước dẫn đến mất cân bằng về tài chính. Nhiều đơn vị tổng lãi vay phải trả lớn gấp nhiều lần quĩ lương, tỷ lệ sinh lời của tài sản nhỏ hơn lãi suất vay, hiệu quả kinh doanh thấp, tài chính kém lành mạnh, vốn chủ sở hữu nhỏ và khả năng ứng phó với môi trường kinh doanh hạn chế, trong khi phải đối diện với những khó khăn lớn của nền kinh tế trong và ngoài nước, đó là sức mua kém, hàng tồn kho lớn, doanh thu giảm sút, doanh nghiệp không có nguồn để trả nợ cả gốc và lãi.

Thứ sáu, thiên tai thường xuyên xảy ra trên diện rộng ở nhiều nơi gây thiệt hại lớn về tài sản và tính mạng con người, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quản trị rủi ro tín dụng, song bảo hiểm nông nghiệp chưa phát triển.

Mặc dù tỷ lệ nợ xấu cho vay nông nghiệp nông thôn của NHNo&PTNT Việt Nam thấp 2,83%. Tuy nhiên, khách hàng chủ yếu của NHNo&PTNT Việt Nam là các hộ gia đình nông dân. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình nông dân sẽ ảnh hưởng đến tiến độ và thời gian đảm bảo thu hồi vốn của ngân hàng. Trong thời gian qua, nguyên nhân nợ xấu phát sinh trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn có một trong các yếu tố khách quan là từ hậu quả của thiên tai gây ra.

Những nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, mô hình tổ chức bộ máy tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng chậm đổi mới.

Trong một thời gian dài, chính sách tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam đã hướng tới những khách hàng như các DNNN, lĩnh vực bất động sản trong khi lĩnh vực truyền thống của ngân hàng lại là nông nghiệp nông thôn. Các


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

Để chuyên môn hóa trong quản lý nghiệp vụ, Trụ sở chính của NHNo&PTNT Việt Nam có những thời điểm có hơn 35 Ban nghiệp vụ, sự điều hành chung và phối hợp giữa các Ban không tốt, dẫn tới sự chỉ đạo chồng chéo, thiếu hiệu quả, ảnh hưởng đến thực hiện các chính sách của ngân hàng. Mô hình tổ chức các phòng, Ban tín dụng của các ngân hàng tiên tiến được hình thành, sắp xếp theo đối tượng khách hàng, nhóm sản phẩm, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng, nâng cao chất lượng khách hàng và hạn chế rủi ro. Nhưng cho đến nay, mô hình tổ chức các phòng, ban tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam được sắp xếp theo các loại hình nghiệp vụ.

Bộ máy tín dụng theo mô hình quản lý cũ, lạc hậu cũng là nguyên nhân làm cho chính sách tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam chậm đổi mới. Các Ban, phòng ở Trụ sở chính trông chờ, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau trong việc hoạch định chính sách mới. Thói quen truyền thống, chưa mạnh dạn nghiên cứu, áp dụng các mô hình quản lý tín dụng của các định chế tín dụng nông nghiệp, nông thôn tiên tiến của thế giới, chưa tổ chức tốt các hội thảo khoa học chuyên ngành...

Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 18

Qua quá trình hoạt động cho thấy mô hình quản trị rủi ro tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam còn có những hạn chế nhất định:

- Tại tầng bảo vệ thứ nhất: Chi nhánh mặc dù chịu trách nhiệm chính về quản lý rủi ro song chưa có bộ phận quản lý rủi ro mà chủ yếu nằm ở Phòng Kiểm tra, kiểm soát nội bộ.

- Mỗi loại rủi ro được phân cho một đơn vị thuộc Trụ sở chính thực hiện phụ thuộc vào mảng nghiệp vụ của từng đơn vị. Tuy nhiên, một số hoạt động liên quan đến nhiều đơn vị thì chưa có đầu mối, thiếu sự đồng bộ và phối hợp, chưa tách trách nhiệm rõ ràng, cụ thể giữa bộ phận quản trị rủi ro.

- Đơn vị chuyên trách, tham mưu cơ chế, chính sách là Uỷ ban Quản lý rủi ro, trong tác nghiệp là Trung tâm PN &XLRR còn hạn chế, chưa phát huy được vai trò, chức năng nhiệm vụ trong việc tham mưu ban hành cơ chế, chính sách hoặc công tác cảnh báo, phòng ngừa, xử lý những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam.

- Vai trò, trách nhiệm và cơ cấu của mỗi tầng trong mô hình quản trị rủi ro chưa được xác định rõ ràng và thiếu tính độc lập, chưa phân định rõ về kiểm soát tuân thủ, kiểm tra, kiểm soát nội bộ và kiểm toán dẫn đến qui trình kiểm soát hoạt động còn bất cập và chồng chéo.


- NHNo&PTNT Việt Nam thiếu một bộ phận rất quan trọng tại Trụ sở chính đó là Uỷ ban Quản lý Tài sản Có, tài sản Nợ (ALCO) nhằm tổng hợp, theo dõi, tham mưu trong việc quản trị các loại rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản. Uỷ ban có trách nhiệm tổng hợp, theo dõi những biến động dù là nhỏ nhất trong cơ cấu tài sản Có, tài sản Nợ để tham mưu cho Tổng giám đốc, HĐTV có những điều chỉnh, quyết sách phù hợp.

- Cán bộ làm công tác quản lý rủi ro từ Trụ sở chính đến Chi nhánh còn thiếu và chưa có nhiều kinh nghiệm về quản trị rủi ro. Một số nghiệp vụ như: quản lý rủi ro lãi suất, quản lý rủi ro tỷ giá, quản lý rủi ro thanh khoản thiếu cán bộ chuyên môn, công tác đào tạo nghiệp vụ quản lý rủi ro còn yếu, chưa được bài bản.

- Chưa có bộ phận quản lý nợ có vấn đề để hỗ trợ thực hiện xử lý các khoản nợ xấu độc lập, tách bạch với bộ phận khởi tạo khoản vay; chưa có bộ phận chuyên trách về nghiệp vụ xử lý tài sản bảo đảm bảo nên việc xử lý tài sản đảm bảo gặp nhiều khó khăn.

- Trách nhiệm của mỗi cá nhân, đơn vị từ Trụ sở chính đến các chi nhánh trong công tác quản trị rủi ro tín dụng chưa được xác định rõ ràng.

Thứ hai, do hệ thống thông tin khách hàng còn nhiều bất cập

Phương pháp phân loại nợ hiện đại trên cơ sở kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ đòi hỏi hệ thống thông tin khách hàng phải đầy đủ, cập nhật. Nhưng do hệ thống xếp hạng tại NHNo&PTNT Việt Nam còn bất cập là sử dụng phương pháp chuyên gia cho nên mang tính chủ quan, kinh nghiệm là chính. Điều này dẫn đến kết quả xếp hạng khách hàng không hoàn toàn chính xác. Bên cạnh đó, thông tin lịch sử của khách hàng còn nghèo nàn, không cập nhật, cho nên khi có những dấu hiệu không tốt về khả năng tài chính, khả năng trả nợ ngân hàng không kịp nhận diện để có các phương án xử lý kịp thời dẫn đến chậm trễ trong việc quản lý nợ xấu.

Mặt khác, tại các đơn vị thành viên (chi nhánh) chưa nghiêm túc thực hiện đánh giá khách hàng và đôi khi ngụy tạo dữ liệu khách hàng nên kết quả phân loại nợ dựa trên phương pháp định tính thiếu chính xác. Ngoài các thông tin do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng còn gặp nhiều khó khăn với các kênh thông tin khác về khách hàng. Rất khó kiểm chứng được toàn bộ những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Ngân hàng chưa có sự kết nối thông tin tốt với các cơ quan khác như Thuế, Hải quan... để kiểm chứng những thông tin do khách hàng cung cấp.

Trong quá trình thực hiện công tác thông tin tín dụng, NHNo&PTNT Việt Nam đã gặp không ít khó khăn. Trong những năm gần đây, NHNo&PTNT Việt Nam đã đẩy


mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin vào các qui trình hoạt động nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Đầu tư công nghệ và triển khai áp dụng công nghệ chưa đồng bộ do số lượng chi nhánh lớn và màng lưới trải rộng, nên hiệu quả sử dụng chưa cao, do đó chưa có khả năng cung cấp thông tin kịp thời và chính xác để phục vụ công tác quản trị điều hành. Tính không ổn định của công nghệ đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động và sự phát triển của từng chi nhánh cũng như toàn hệ thống.

Chương trình giao dịch trên máy hiện nay của NHNo&PTNT Việt Nam (chương trình IPCAS) đã được thiết kế và đi vào hoạt động, tuy nhiên do vẫn đang trong quá trình hoàn thiện và triển khai tiếp các modul phụ trợ, chương trình chưa thực hiện đồng bộ, nên vẫn còn tình trạng rất nhiều chi nhánh thu thập thông tin và báo cáo theo phương pháp thủ công, mất thời gian, thiếu chính xác. Chính vì vậy, các cấp quản lý và Trung tâm điều hành không thể có thông tin kịp thời, đầy đủ để chỉ đạo xử lý các khoản dư nợ có vấn đề, dẫn đến tình trạng nợ xấu phát sinh. Việc chấp hành qui định của cán bộ vận hành trong qui trình thu nhận thông tin khách hàng đưa vào hệ thống (ví dụ tạo mã số khách hàng, nhập các thông tin bắt buộc về khách hàng) không thực hiện nghiêm túc. Hệ thống phần mềm xây dựng chuẩn, nhưng nếu việc nhập dữ liệu tại từng chi nhánh còn sai sót thì sẽ dẫn đến số liệu toàn hệ thống bị sai lệch.

Thông tin phục vụ quản lý trên hệ thống IPCAS thiết kế tương đối đầy đủ nhưng hiện tại trên hệ thống IPCAS lượng thông tin khách hàng cần có để quản lý còn thiếu và chưa cập nhật. Các thông tin được các chi nhánh nhập vào hệ thống hầu hết là các thông tin cơ bản, còn các thông tin khác liên quan đến việc quản lý nợ xấu như thông tin về tài chính, thông tin về tín dụng hầu như bị bỏ qua.

Thứ ba, chưa thực sự chú trọng công tác sàng lọc khách hàng.

Trong hoạt động cho vay, NHNo&PTNT Việt Nam chưa thực sự chú trọng công tác sàng lọc khách hàng nên chất lượng tín dụng chưa cao. Mặt khác, do lãi suất cho vay khá cao, vượt quá sức chịu đựng của hầu hết các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh và cá nhân nên vốn tín dụng thường không đến đúng các địa chỉ cần thiết (thường là đổ vào các thị trường bất động sản, vàng, ngoại tệ...) làm giảm hiệu quả nguồn vốn trong nền kinh tế, nợ xấu tăng cao. Ngân hàng đang sử dụng duy nhất một hệ thống chấm điểm tín dụng cho toàn bộ hoạt động cho vay tiêu dùng (nhu cầu vay mua nhà, xin cấp thẻ tín dụng, vay du học, vay mua ôtô...). Điều này là bất hợp lý bởi đặc tính tín dụng của các nhu cầu này hoàn toàn khác nhau mặc dù cùng là hình thức vay trả góp. Hệ thống chấm điểm tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam hiện nay hầu


như hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của các chuyên gia, không có khung thống nhất và dựa trên các báo cáo tài chính doanh nghiệp chưa được kiểm toán. Bên cạnh đó, hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ lại không thường xuyên được cập nhật theo thời gian, dẫn đến điểm số đạt được trong các tiêu chí chấm điểm không phản ánh đúng năng lực thực tế của khách hàng.

Thứ tư, chưa gắn trách nhiệm của cán bộ liên quan với chất lượng tín dụng, chưa làm tốt công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ

Do khâu thẩm định vốn vay hời hợt, quá trình kiểm soát mục đích vốn vay không chặt chẽ. Trong quá trình thẩm định vốn vay, trừ một số ít khách hàng có hoạt động kinh doanh không hiệu quả bắt nguồn từ các nguyên nhân như: kinh doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, khó khăn do thay đổi cơ chế, thay đổi chính sách tăng trưởng của nhà nước, thì hầu hết các khoản nợ xấu bắt nguồn từ khâu thẩm định hời hợt, quá trình kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay không chặt chẽ và công tác kiểm tra sau cho vay không được thực hiện đầy đủ của cán bộ tín dụng, dẫn đến không phát hiện kịp thời những khó khăn của khách hàng ngay từ khi vừa nhen nhóm. Không ít khách hàng, khi được kiểm tra về việc sử dụng vốn sau khi vay cho biết, một phần vốn vay được sử dụng vào kinh doanh, phần còn lại dùng cho các mục đích khác.. Đến khi phần vốn đầu tư kinh doanh thua lỗ, không còn nguồn khác để trả nợ ngân hàng dẫn đến nợ xấu phát sinh.

Trong thời gian qua, rất nhiều cán bộ thuộc NHNo&PTNT Việt Nam đã bị khởi tố do vi phạm quy tắc nghề nghiệp, làm thất thoát một khối lượng lớn tài sản của ngân hàng. Đặc biệt, một bộ phận cán bộ lãnh đạo có biểu hiện suy thoái đạo đức nghề nghiệp, cố tình vi phạm các quy định của NHNo&PTNT về cấp tín dụng làm phát sinh nợ xấu như: cho vay, cấp bảo lãnh không đúng quy định, không hạch toán, theo dõi sổ sách, mở LC nhưng không xác định được nguồn vốn thanh toán, cho vay vượt quyền phán quyết gây thiệt hại về tài sản và ảnh hưởng tới uy tín, thương hiệu của NHNo&PTNT Việt Nam

Thứ năm, do công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ kém hiệu quả, ngân hàng chưa chú trọng kiểm soát rủi ro ở khâu cấp và đánh giá tín dụng.

Hệ thống tổ chức của NHNo&PTNT Việt Nam hiện nay có Bộ phận Kiểm soát nội bộ chuyên trách trực thuộc Tổng Giám đốc và Giám đốc các chi nhánh. Đã có sự đồng nhất giữa hệ thống kiểm soát nội bộ và bộ phận kiểm soát nội bộ chuyên trách. Sự nhầm lẫn này dẫn đến hệ thống kiểm soát trong quá trình cấp tín dụng, theo dõi và giám sát khoản vay không được thiết lập tốt, dẫn đến nguy cơ rủi ro tín dụng. Vì bộ


phận kiểm soát nội bộ không thể đảm đương được chức năng kiểm soát của hệ thống kiểm soát trong quá trình cấp tín dụng (là các cơ chế, chính sách, qui trình nhằm đảm bảo sự kiểm soát hiệu quả). Thực tế bộ phận kiểm soát nội bộ của NHNo&PTNT Việt Nam đang làm một phần chức năng của kiểm toán nội bộ. Do đó, bộ phận này kiểm tra sau mà không thể tham gia vào quá trình xét duyệt tín dụng. Vì vậy, trong quá trình xét duyệt tín dụng, đã thiếu vắng cơ chế kiểm soát hữu hiệu, việc thẩm định đánh giá của bộ phận tín dụng không được bộ phận khác kiểm tra, xem xét đánh giá độc lập. Bộ phận kiểm toán nội bộ của NHNo&PTNT Việt Nam chưa phát huy tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ.Vì vậy, những điểm yếu mang tính hệ thống của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ không được đánh giá đúng và có biện pháp khắc phục.

Ở khâu cấp và đánh giá tín dụng, kiểm soát rủi ro chưa được coi trọng. Thể hiện:

(i) Thiếu các tiêu chuẩn đánh giá và xếp hạng tín dụng khách hàng một cách đầy đủ để hạn chế rủi ro. Đánh giá và xếp hạng khách hàng là điều kiện cần thiết để đi đến cấp tín dụng. Tuy nhiên, tại NHNo&PTNT Việt Nam, việc xếp hạng khách hàng không bắt buộc khi cấp tín dụng lần đầu. Việc cấp tín dụng dựa trên 5 điều kiện: (1) Có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. (2) Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. (3) Có khả năng trả nợ đúng cam kết (doanh nghiệp kinh doanh có lãi, nếu lỗ thì phải có phương án khắc phục khả thi; cá nhân có thu nhập đủ trả nợ, không có nợ nhóm 4,5 tại ngân hàng); (4) Có dự án, phương án khả thi, hiệu quả; (5) Thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay theo qui định của Chính phủ, NHNN và NHNo&PTNT Việt Nam.

Rõ ràng các điều kiện trên chỉ là các điều kiện cần, dựa vào các điều kiện này, khó có thể sàng lọc khách hàng. Định kỳ hàng năm, các khách hàng vay vốn tại NHNo&PTNT Việt Nam được xếp loại dựa vào 5 tiêu chí: Lợi nhuận, Tỷ suất tự tài trợ; Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn; Nợ xấu; Tình hình chấp hành các qui định pháp luật và xếp loại A, B, C. Khách hàng được xếp loại C phải giảm dần dư nợ và thực hiện các biện pháp đảm bảo bằng tài sản. Việc qui định xếp loại khách hàng hàng năm, mà không bắt buộc xếp loại khách hàng khi phê duyệt tín dụng, sẽ có độ lệch về thời gian và tạo ra rủi ro rất lớn cho ngân hàng khi không sàng lọc khách hàng chính xác ngay tại thời điểm xem xét cho vay. Hơn nữa, các tiêu chí xếp loại khách hàng quá đơn giản, không đầy đủ các chỉ tiêu định tính và định lượng, cho thấy, khả năng đánh giá và sàng lọc khách hàng thông qua xếp loại rất thấp. Với một số rất ít chỉ tiêu về tài chính thì


việc có các tác động chủ quan để thay đổi kết quả xếp hạng là khá dễ dàng. Việc căn cứ vào các chỉ tiêu đơn giản như vậy, cũng không thể đánh giá đúng mức độ rủi ro của khách hàng.

(ii) Thiếu vắng các cơ chế kiểm soát hữu hiệu trong quá trình cấp tín dụng.

Qui trình cấp tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam bao gồm các bước cơ bản sau:

(1) Tiếp xúc với khách hàng, nhận hồ sơ đề nghị vay vốn của khách hàng.

(2) Cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn, định giá tài sản... trình lãnh đạo phòng tín dụng, xem xét, cho ý kiến.

(3) Trình Giám đốc/ Phó Giám đốc phê duyệt khoản vay.

(4) Sau khi khoản vay được phê duyệt/không phê duyệt, toàn bộ hồ sơ chuyển cho cán bộ tín dụng.

(5) Thông báo từ chối cho vay (nếu khoản vay không được phê duyệt). Hoặc tiến hành lập các loại hợp đồng, ký kết hợp đồng (Giám đốc/ Phó Giám đốc và khách hàng vay) và tiến hành giải ngân (nếu khoản vay được phê duyệt).

(6) Theo dõi, giám sát khoản vay, thu hồi nợ, phân loại nợ.

Qui trình cấp tín dụng này được áp dụng cho tất cả các khoản vay đối với cá nhân cũng như doanh nghiệp trong phạm vi mức thẩm quyền của một chi nhánh. Nếu khoản vay vượt mức phán quyết của chi nhánh sẽ được trình Hội sở chính (hoặc khách hàng giao dịch trực tiếp tại Hội sở chính). Khi đó, qui trình diễn ra tương tự: Chuyên viên tín dụng - Lãnh đạo Ban tín dụng - Tổng Giám đốc/Chủ tịch HĐQT.

Trong mô hình này, cán bộ tín dụng đảm nhiệm khá nhiều nhiệm vụ. Tuy nhiên, khả năng chuyên sâu của cán bộ tín dụng khó có thể đáp ứng được trong một môi trường tín dụng đa dạng, đặc biệt là đối với các khoản vay lớn, phức tạp, do đó khả năng xảy ra rủi ro tín dụng là rất lớn. Đồng thời, việc tác động vào kết quả đánh giá, thẩm định, quá trình theo dõi, giám sát khoản vay khá dễ dàng vì chỉ một cá nhân, một bộ phận phụ trách. Qui trình này cho thấy, hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết lập rất yếu, không có sự kiểm soát độc lập, kiểm tra, giám sát chéo trong quá trình thẩm định cũng như theo dõi, giám sát khoản vay. Sự không chặt chẽ trong kiểm soát có thể tạo điều kiện cho những quyết định cấp tín dụng không chính xác. Do vậy, nguy cơ nợ xấu phát sinh là điều không tránh khỏi. Bên cạnh đó NHNo&PTNT Việt Nam chưa sử dụng các mô hình thống kê để lượng hóa rủi ro theo thông lệ quốc tế. Để áp dụng mô hình này đòi hỏi sự đầu tư lớn về công nghệ, vốn, nhân sự và cơ sở dữ liệu phong phú, kịp thời và chính xác. Những cơ sở này đều là thách thức lớn với NHNo&PTNT Việt


Nam trong giai đoạn này khi ngân hàng đang đứng trước những khó khăn rất lớn trong hoạt động kinh doanh.

Thứ sáu, do sức ép gia tăng vốn điều lệ.

Vốn điều lệ của NHNo&PTNT Việt Nam năm 2006 là 6.513 tỷ đồng thì đến ngày 31/12/2014 đã tăng lên 43.733 tỷ đồng. Dư nợ cho vay năm 2008 là 284.000 tỷ đồng; năm 2010 dư nợ cho vay là 414.000 tỷ đồng, tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng nguồn vốn 87,3%. Năm 2012 tổng dư nợ cho vay đạt 480.000 tỷ đồng. Với cuộc cạnh tranh đua nhau mở chi nhánh, phòng giao dịch trong khi năng lực quản trị điều hành không nâng lên. Không những vậy, để đáp ứng yêu cầu tăng vốn điều lệ, áp lực về tăng lợi nhuận trong điều kiện vốn điều lệ tăng cao nên NHNo&PTNT Việt Nam cũng giao chỉ tiêu khoán kinh doanh rất lớn cho các chi nhánh và phòng giao dịch. Các đơn vị kinh doanh này trước sức ép các chỉ tiêu được giao nên mở rộng cho vay quá nóng, không quan tâm nhiều đến an toàn.

Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng nhiều doanh nghiệp vay vốn chính là sân sau của chính thành viên hội đồng quản trị, trong đó không ít công ty hoạt động trong lĩnh vực bất động sản. Hiện tượng “nhóm lợi ích” và “sở hữu chéo”, “sở hữu lẫn nhau” thông qua một bên thứ ba diễn ra phổ biến đã làm cho qui mô vốn điều lệ cũng như tổng tài sản của NHNo&PTNT Việt Nam tăng ảo. Các khoản cho vay đối với các công ty dạng này không được thực hiện nghiêm túc các qui định về tín dụng, nợ xấu phát sinh.

Thứ bảy, do sự phối hợp xử lý nợ xấu giữa với các cơ quan chức năng chưa hiệu quả.

Thiếu sự phối hợp hỗ trợ từ các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương các cấp trong quá trình xử lý nợ xấu của ngân hàng, thậm chí các cơ quan này còn gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xử lý, thu hồi nợ xấu.

Một số DNNN làm ăn thua lỗ, ngừng sản xuất nhưng các Bộ, Ngành, địa phương chần chừ không thực hiện sắp xếp lại do nhiều lý do gây nên khó khăn trong việc thu hồi nợ. Cũng có doanh nghiệp đã quyết định phá sản, giải thể nhưng tài sản không thể thanh lý được do không có đầy đủ giấy tờ hoặc tài sản không còn giá trị. Do vậy, việc bán tài sản công khai trên thị trường và qua trung tâm bán đấu giá tốn kém rất nhiều thời gian để xác định tính pháp lý của tài sản.

Việc xử lý nợ xấu liên quan đến nhiều đối tượng khách hàng (cơ quan, doanh nghiệp, cá nhân...), nhiều lĩnh vực (sắp xếp lại doanh nghiệp, xử lý tài chính cho doanh

Xem tất cả 200 trang.

Ngày đăng: 29/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí