Khái Quát Mô Hình Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Nhno&ptnt Việt Nam


- Ban kiểm tra, kiểm soát nội bộ kiểm tra việc thực hiện các qui định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay, biện pháp đảm bảo, chính sách dự phòng rủi ro, kiểm tra việc thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng, trích lập, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro và các qui định nội bộ khác trong toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.

Tầng 3 (Vòng bảo vệ thứ 3)- Ban Kiểm soát HĐTV.

- Ban Kiểm soát giám sát, đánh giá việc thực hiện các chiến lược, chính sách, qui trình và giới hạn quản lý rủi ro của NHNo&PTNT Việt Nam theo các qui định của pháp luật và của NHNo&PTNT Việt Nam.

- Bộ phận kiểm toán nội bộ (thuộc Ban kiểm soát) thực hiện rà soát, đánh giá độc lập về tính thích hợp và việc chấp hành các chính sách, qui định nội bộ, qui định của pháp luật và hiệu quả của hệ thống quản lý rủi ro của NHNo&PTNT Việt Nam, hiệu quả của hệ thống kiểm soát.

Qua quá trình triển khai thực hiện, mô hình quản trị rủi ro của NHNo&PTNT Việt Nam đã có nhiều đổi mới, đáp ứng theo chuẩn mực chung như:

Một là, bước đầu ngân hàng đã có sự tách bạch và độc lập giữa bộ phận khối trước (bộ phận khởi tạo cho vay, bộ phận tư doanh và quản lý danh mục đầu tư…) và bộ phận khối sau (bộ phận thẩm định tín dụng, bộ phận thanh toán và kiểm soát…).

Hai là, mô hình tổ chức bộ máy quản trị rủi ro từ tầng 2 - Đơn vị quản lý tại Trụ sở chính đến tầng 1 - Chi nhánh, Phòng, Điểm giao dịch đồng bộ với hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ.

Ba là, đã thành lập bộ phận Kiểm soát trực thuộc HĐTV có chức năng độc lập giám sát, đánh giá sự tuân thủ với các chính sách và qui trình quản lý rủi ro trong ngân hàng.

Bốn là, đã thành lập Công ty mua bán nợ trực thuộc Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu bán các khoản nợ xấu của các chi nhánh sang bộ phận có tính chuyên nghiệp hơn. Ngoài ra, cũng thực hiện xây dựng các tổ chỉ đạo xử lý nợ xấu tại trụ sở chính do các lãnh đạo thuộc Ban Tổng Giám đốc, HĐTV làm tổ trưởng đối với các chi nhánh có nợ xấu cao theo đề án tái cơ cấu ngân hàng.

Năm là, có sự phân cấp, uỷ quyền rõ ràng thông qua qui trình phân cấp uỷ quyền tín dụng đối với từng bộ phận.

Mô hình quản trị rủi ro tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam đang thực hiện theo mô hình quản trị rủi ro tín dụng phân tán, trong đó phòng tín dụng của ngân hàng


thực hiện đầy đủ ba chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay. Các phòng, ban khác trong ngân hàng có các sản phẩm có tính chất tín dụng như L/C miễn ký quĩ, chiết khấu chứng từ… cũng tham gia hoạt động quả trị rủi ro. Trong những năm gần đây mô hình quản trị rủi ro tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam đã được hoàn thiện theo yêu cầu hoạt động bền vững, an toàn và hội nhập của khu vực cũng như của thế giới. Trách nhiệm giữa hội sở chính hay trung tâm điều hành với các chi nhánh và đơn vị trực thuộc được phân công rõ ràng. Hiện nay Ban tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam (bao gồm cả Ban tín dụng doanh nghiệp và Ban tín dụng hộ sản xuất) chịu trách nhiệm xây dựng các chính sách và qui tắc quản trị chung cho công tác quản lý tín dụng trong toàn hệ thống, các bộ phận nghiệp vụ tín dụng (tại Trung tâm điều hành và các chi nhánh) dựa trên những chính sách và qui tắc đó trực tiếp thực hiện các giao dịch tín dụng, quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng.

Sơ đồ 3 2 Khái quát mô hình quản trị rủi ro tín dụng tại NHNo PTNT Việt 1


Sơ đồ 3.2: Khái quát mô hình quản trị rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam

Tại mỗi chi nhánh đều có phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ thực hiện các chương trình công tác theo sự điều hành chuyên môn trực tiếp từ Ban Kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại Trung tâm điều hành. Phòng Kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại chi nhánh có chức năng kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng, xây dựng chương trình công tác, kế hoạch kiểm tra theo yêu cầu từng thời kỳ, đảm bảo hạn chế và phòng ngừa rủi ro ở mức chấp nhận.

Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro là trung tâm xử lý và cung cấp thông tin khách hàng phục vụ công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng, giám sát việc phân loại nợ, xử lý rủi ro và thu hồi nợ ở các chi nhánh.


Mô hình tổ chức quản trị RRTD của NHNo&PTNT Việt Nam được xây dựng theo mô hình quản lý phân quyền. Với mô hình quản lý phân tán như vậy, các chi nhánh phải tự chịu trách nhiệm về công tác quản lý danh mục cho vay cũng như những rủi ro trong hoạt động tín dụng trong các giới hạn hướng dẫn của NHNo&PTNT Việt Nam. Chi nhánh không có bộ phận quản lý rủi ro riêng, cán bộ tín dụng đảm nhận các công việc cho vay đối với khách hàng.

Mô hình bao gồm ba nhóm chính trực tiếp tham gia vào qui trình quản lý tín dụng, trong đó:

a. Tổng giám đốc (Giám đốc chi nhánh): Phối hợp với các ban tín dụng hoạch định chiến lược quản lý rủi ro tín dụng. Là người quyết định cuối cùng trong việc ban hành các chính sách cũng như qui trình tín dụng, đồng thời cũng là người đưa ra các phán quyết tín dụng và chịu trách nhiệm với phán quyết của mình.

b. Các phòng, ban nghiệp vụ tín dụng: Quản lý hoạt động tín dụng, nghiên cứu, đề xuất, cải tiến thủ tục cho vay; xây dựng và thực hiện chiến lược khách hàng; tổ chức quản lý và phân loại khách hàng; Phân tích kinh tế theo ngành nghề kinh tế kỹ thuật, lựa chọn đối tượng và các biện pháp cho vay đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, ban tín dụng còn thực hiện kiểm tra, phân tích hoạt động tín dụng, phân loại nợ, phân tích nợ quá hạn để tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục.

c. Kiểm tra, giám sát tín dụng độc lập: Là một bộ phận thuộc ban kiểm tra, kiểm toán nội bộ, hoạt động độc lập với các phòng, ban nghiệp vụ tín dụng nhằm đảm bảo việc thực hiện quản lý RRTD một cách khách quan. Bộ phận này có nhiệm vụ đánh giá mức độ rủi ro của danh mục tín dụng và qui trình quản lý rủi ro, kiểm soát hoạt động tín dụng trong toàn hệ thống của NHNo&PTNT Việt Nam và đề ra các biện pháp phòng ngừa.

Thứ hai, thực hiện hoạt động kiểm tra, kiểm soát.

Hoạt động kiểm tra, kiểm soát cũng được NHNo&PTNT Việt Nam thực hiện nghiêm túc và đồng bộ. Tại Hội sở chính NHNo&PTNT Việt Nam có Ban kiểm tra kiểm toán nội bộ, tại các chi nhánh có phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ. Hệ thống kiểm tra nội bộ chuyên trách và các cán bộ có khả năng hoạt động độc lập với các bộ phận nghiệp vụ và được độc lập đánh giá, kết luận, kiến nghị trong hoạt động kiểm tra kiểm toán. Chính điều này đã giúp NHNo&PTNT Việt Nam phát hiện được các thiếu sót từ phía ngân hàng để phòng ngừa kịp thời.


Trong công tác quản lý nợ xấu, NHNo&PTNT Việt Nam thực hiện việc kiểm toán trước và trong khi cho vay: Áp dụng nghiêm túc qui chế và qui trình cho vay; Phân tích chất lượng tín dụng và phân loại các khoản vay theo qui định của NHNN để đề xuất kế hoạch kiểm tra, phòng ngừa và xử lý; Sau khi cho vay NHNo&PTNT Việt Nam cũng kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của khách hàng: Kiểm tra mức độ tuân thủ theo đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng nhằm phát hiện sớm những dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra, giám sát, cán bộ tín dụng thường xuyên thu thập thông tin để có hướng xử lý kịp thời đối với các khoản cho vay có vấn đề. Các nguồn tìm kiếm thông tin có thể lấy từ các nguồn đa dạng khác nhau. Cụ thể:

>Cơ quan quản lý thuế: Bao gồm các thông tin về tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế có đầy đủ không, có hành vi gian lận, trốn thuế hay mua, bán hoá đơn bất hợp pháp hay không.

>Cơ quan quản lý nhà nước các cấp: Bao gồm các thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường, về lĩnh vực, ngành nghề, thị trường hoạt động… cũng như các chính sách của nhà nước liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

>Phương tiện thông tin đại chúng: Bao gồm các thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp, về chất lượng hàng hoá, về thị phần cũng như các thông tin liên quan đến lợi thế cạnh tranh, thương hiệu, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.

>Các bạn hàng và đối thủ cạnh tranh của khách hàng: Bao gồm các thông tin về năng lực quản lý điều hành của Ban lãnh đạo, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường…

>Hệ thống thông tin và phòng ngừa rủi ro của phòng thông tin kinh tế - tài chính - ngân hàng thuộc NHNo&PTNT Việt Nam hoặc thông tin phòng ngừa rủi ro của Trung tâm thông tin tín dụng thuộc NHNN Việt Nam - CIC. Bao gồm các thông tin về hồ sơ vay vốn, thông tin giao dịch qua tài khoản ngân hàng, các bản sao sổ sách kế toán, chứng từ, các báo cáo về tình hình tài chính của doanh nghiệp như báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh…

>Các tổ chức tư vấn hoặc tổ chức cung cấp thông tin chuyên nghiệp. Bao gồm các thông tin liên quan đến nội bộ doanh nghiệp, các chiến lược kinh doanh trong tương lai, các thông tin liên quan đến giá cổ phiếu hay trái phiếu của doanh nghiệp…


> Các nguồn khác. Hiện nay, trong các hoạt động kiểm tra, kiểm soát NHNo&PTNT Việt Nam đang áp dụng mô hình kiểm soát đơn. Đây là mô hình có cơ chế kiểm soát thông qua cơ quan kiểm soát nội bộ của NHNo&PTNT Việt Nam và cơ quan thanh tra giám sát của NHNN. Cơ chế kiểm soát đơn hầu như không có sự tham gia của cơ quan kiểm toán bên ngoài hay sự giám sát của thị trường.

Cơ chế kiểm soát của NHNo&PTNT Việt Nam thực hiện kiểm soát thông qua thanh tra giám sát NHNN và bộ phận kiểm soát nội bộ của chính NHNo&PTNT Việt Nam. Thanh tra giám sát NHNN thực hiện việc giám sát ngân hàng qua hai hình thức chủ yếu là thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa. Bộ phận kiểm soát nội bộ của NHNo&PTNT Việt Nam bao gồm kiểm tra, kiểm toán nội bộ và bộ phận quản lý RRTD của ngân hàng.

Phương thức kiểm soát được thực hiện chủ yếu qua hệ thống các văn bản, các báo cáo giám sát từ xa của cơ quan thanh tra NHNN. Do chỉ có đơn phương là hệ thống thanh tra viên nên các kết quả kiểm tra kiểm soát không được kiểm tra lại, không được giám sát qua cơ quan thứ hai nên không đảm bảo tính chính xác và hiệu quả cảnh báo rủi ro chưa cao.

Mô hình kiểm soát của NHNo&PTNT Việt Nam có ưu điểm là chi phí về kiểm tra, kiểm soát ít tốn kém, thời gian nhanh chóng, cơ cấu tổ chức bộ máy gọn nhẹ. Tuy nhiên, mô hình này có nhược điểm là việc kiểm soát chỉ giới hạn ở hai đơn vị sẽ dẫn đến tình trạng đánh giá không khách quan. Đồng thời, hiệu quả giám sát không cao do thông tin còn hạn chế về tính minh bạch, công khai và thiếu vắng vai trò của cơ quan kiểm toán hay thị trường.

3.3.3. Thực trạng xử lý nợ xấu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam trong thời gian qua

Trước đây NHNo&PTNT Việt Nam chỉ có một bộ phận chuyên trách xử lý nợ xấu tại trụ sở chính, còn tại các chi nhánh, cán bộ xử lý nợ là các cán bộ tín dụng kiêm nhiệm không chuyên trách. Bộ phận xử lý nợ chủ yếu làm nhiệm vụ giải quyết hậu quả của việc cho vay không thu hồi được nợ. Tuy nhiên, từ năm 2005 trở lại đây, một số chi nhánh của NHNo&PTNT Việt Nam đã có bộ phận quản lý rủi ro/nợ có vấn đề chuyên trách. Bộ phận quản lý rủi ro/nợ có vấn đề định kỳ báo cáo, phân tích các khoản nợ có vấn đề để cùng bộ phận tín dụng tìm hướng xử lý.


Khi phát hiện các khoản nợ xấu, cán bộ tín dụng theo dõi chặt chẽ tình hình sản xuất kinh doanh, đôn đốc khách hàng trả nợ như đã thoả thuận. Đồng thời, tuỳ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, tình trạng TSĐB, ngân hàng phân tích khả năng thu nợ để lựa chọn biện pháp xử lý nợ thích hợp để trình cấp có thẩm quyền.

Những năm gần đây, trong điều kiện nợ xấu tăng nhanh và cao hơn nhưng so với mức khuyến cáo của NHNN. Việc tập trung xử lý nợ xấu trở thành một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu trong toàn hệ thống. Để tập trung xử lý thu hồi, giảm thấp nợ xấu, NHNo&PTNT Việt Nam đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp:

(i) Thành lập ban chỉ đạo xử lý nợ, ban thường trực giúp việc tại Trụ sở chính và trưng tập cán bộ tại các Chi nhánh, phân công các Thành viên HĐTV, các Phó Tổng Giám đốc, thành lập các đoàn công tác trực tiếp chỉ đạo chi nhánh có chất lượng tín dụng thấp, tài chính yếu để phân tích thực trạng nợ xấu, nợ tiềm ẩn rủi ro, tập trung vào các khoản nợ lớn, xây dựng và triển khai phương án xử lý thu hồi phù hợp với từng khoản nợ, định hướng công tác tăng trưởng tín dụng đảm bảo mục tiêu tăng trưởng bền vững, an toàn (chỉ tăng nợ nhóm 1 mới, nợ nhóm 2 có khả năng phục hồi…); (ii) Yêu cầu các chi nhánh có nợ xấu trên 5% thành lập tổ xử lý nợ do Giám đốc chi nhánh trực tiếp làm tổ trưởng, giao chỉ tiêu, tiến độ xử lý, thu hồi nợ xấu đến từng tập thể, các nhân; (iii) Chỉ đạo đánh giá lại thực trạng tài sản bảo đảm, hoàn thiện thủ tục, hồ sơ pháp lý để áp dụng các biện pháp xử lý, thu hồi; (iv) Thực hiện các biện pháp cơ cấu lại nợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng; Tăng cường kiểm tra, đẩy mạnh công tác cảnh báo rủi ro, đôn đốc thu hồi, xử lý đối với các khoản nợ đã được cơ cấu, nợ tiềm ẩn để ngăn ngừa, hạn chế nợ xấu phát sinh; (v) Rà soát, hoàn thiện hồ sơ để xử lý rủi ro đối với các khoản nợ xấu đã được trích lập dự phòng đủ điều kiện; (vi) Lựa chọn các khoản nợ phù hợp, đủ điều kiện, xây dựng và thực hiện phương án bán nợ cho VAMC, DATC và các tổ chức mua bán nợ khác theo quy định hiện hành

Cụ thể, trong giai đoạn 2010- 2014 NHNo&PTNT Việt Nam đã áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu theo hướng:

a. Áp dụng các biện pháp khai thác nợ xấu

Trong xử lý nợ xấu, biện pháp khai thác nợ luôn được ưu tiên khi các khoản nợ được đánh giá có khả năng phục hồi năng lực trả nợ sau khi xử lý.


Bảng 3.8: Tình hình khai thác nợ xấu

của NHNo&PTNT Việt Nam giai đoạn 2010 - 2014

Đơn vị: Tỷ đồng


Chỉ tiêu

2010

2011

2012

2013

2014

Cho vay tiếp để duy trì hoạt động

1.000

1.450

1.430

1.720

1.985

Nợ được cơ cấu lại

2.530

3.280

4.850

4.900

5.400

Nợ được giảm/miễn lãi

650

1.060

1.150

1.830

1.525

Tổng Nợ xấu được xử lý theo phương án khai thác

4.180

5.790

7.430

8.450

8.910

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

Nguồn: Số liệu tổng hợp của NHNo&PTNT Việt Nam

Tại NHNo&PTNT Việt Nam, trong thời gian vừa qua toàn hệ thống đã có nhiều nỗ lực trong việc khai thác những khoản nợ xấu mà theo đánh giá của ngân hàng là khách hàng còn có khả năng phục hồi để trả nợ. Dư nợ xấu được khai thác tăng dần qua các năm, đặc biệt tăng cao trong 2 năm 2013, 2014 với lượng nợ xấu xử lý mỗi năm tăng gấp đôi so với năm 2010. Ngân hàng chủ yếu sử dụng 3 biện pháp khai thác nợ: Cho vay để duy trì hoạt động, Cơ cấu lại nợ và Giảm/miễn lãi.

Từ số liệu bảng 3.8 cho thấy, phần lớn nợ xấu tại NHNo&PTNT Việt Nam được xử lý theo phương án Cơ cấu lại nợ. Đối với biện pháp này, đối tượng khách hàng được xem xét áp dụng là khách hàng có khó khăn tạm thời trong sản xuất kinh doanh, không trả được nợ khi đến hạn. NHNo&PTNT Việt Nam xem xét, đánh giá khả năng phục hồi của khách hàng khi tiếp tục được điều chỉnh nợ hoặc gia hạn nợ cho khách hàng. Khách hàng với sự trợ giúp của ngân hàng khi khôi phục hoạt động kinh doanh, tạo nguồn thu trả nợ cho ngân hàng. Kết quả cho thấy NHNo&PTNT Việt Nam sử dụng biện pháp này một cách linh hoạt và dư nợ xấu được xử lý đã tăng dần trong thời gian vừa qua. Đặc biệt khi Quyết định 780/NHNN-QĐ ngày 23/4/220112 về phân loại nợ được điều chỉnh kỳ hạn có hiệu lực thì biện pháp Cơ cấu nợ càng được ngân hàng áp dụng nhiều hơn. Nợ xấu đã được giải quyết bằng Cơ cấu nợ tăng nhanh từ 2012 với dư nợ xấu được khai thác là: 4.850 tỷ, sang năm 2013 là 4.900 tỷ và năm 2014 là 5.400 tỷ đồng. Rõ ràng biện pháp này đã giúp cho NHNo&PTNT thu hồi được lượng nợ xấu đáng kể mà không phải bơm thêm vốn cho khách hàng và tránh tạo thêm áp lực tài chính cho ngân hàng. Việc cơ cấu lại nợ theo QĐ 780/NHNN-QĐ hết hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2015 với tình hình nền kinh tế còn nhiều khó khăn làm ảnh hưởng đến hoạt


động sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. Vì vậy năm 2015 sẽ là năm nợ xấu tăng nhanh hơn so với thời kỳ trước.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra cho NHNo&PTNT Việt Nam khi cơ cấu nợ cho khách hàng là việc có một số chi nhánh ngân hàng cố tình che giấu những khoản nợ xấu bằng việc cơ cấu lại nợ hoặc chưa đánh giá sát tình hình khách hàng về doanh thu, chi phí, luồng tiền và khả năng trả nợ, điển hình như tại Sở giao dịch với khách hàng là Công ty cổ phần Biển Bắc. Chính điều này đã làm cho nợ xấu trong tương lai càng trầm trọng hơn. Hơn nữa, khi Thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày 18/3/2014 có hiệu lực với những quy định chặt chẽ hơn về cơ cấu lại nợ thì biện pháp này sẽ không còn phát huy nhiều hiệu quả như trước đây.

Cho vay tiếp để duy trì hoạt động là biện pháp khai thác nợ cũng được ngân hàng áp dụng trong thời gian từ 2010 đến 2014. Việc khách hàng gặp những khó khăn tạm thời, không hoàn thành được nghĩa vụ với ngân hàng sẽ được khắc phục khi khách hàng được ngân hàng bơm thêm vốn để phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh. Dưới sự hỗ trợ về tài chính của ngân hàng, khách hàng có nợ xấu đã có thể vượt qua khó khăn và trả được nợ cho ngân hàng. Dư nợ xấu được khai thác tăng qua các năm không lớn nhưng ổn định, cụ thể: năm 2010 là 1.000 tỷ, năm 2011 tăng lên 450 tỷ đạt 1.450 tỷ, năm 2012 dư nợ xấu được xử lý giảm 20 tỷ còn 1.430 tỷ. Năm 2013, 2014 tiếp tục đà tăng nhẹ, mỗi năm tăng thêm 200 - 300 tỷ đồng. Tuy nhiên, khó khăn đặt ra cho NHNo&PTNT Việt Nam khi sử dụng biện pháp khai thác này là khả năng đánh giá sự hồi phục của khách hàng. Nếu như đánh giá không chính xác về khách hàng và tiếp tục cho vay thì vô hình trung đã để cho nợ xấu thêm chồng chất, điển hình như món vay của Công ty xi măng Thanh Liêm tại Chi nhánh Thăng Long, Công ty Diệp Bạch Dương tại Chi nhánh TP Hồ Chí Minh.

Cùng với Cơ cấu lại nợ, Cho vay bổ sung thì Miễn giảm lãi tiền vay cũng được ngân hàng tăng cường nhằm tạo điều kiện cho khách hàng giảm bớt áp lực về tài chính, khuyến khích khách hàng trả một phần hoặc toàn bộ khoản nợ xấu cho ngân hàng. Biện pháp này hàng năm cũng giúp NHNo&PTNT Việt Nam thu hồi được trung bình hơn

1.000 tỷ nợ xấu. Dư nợ xấu được xử lý bằng biện pháp này tăng không nhiều trong thời gian qua có thể do NHNo&PTNT chưa linh hoạt trong việc áp dụng biện pháp quản lý nợ xấu này.

b. Các biện pháp thanh lý nợ

Đối với các khoản nợ không thể cải thiện năng lực trả nợ, NHNo&PTNT Việt Nam đã chủ động, tăng cường thanh lý nhằm hạn chế tối đa tổn thất tín dụng.

Xem tất cả 200 trang.

Ngày đăng: 29/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí