Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Quảng Bình - 3

- Chương 1: Lý luận chung quản lý nhà nước về nguồn nhân lực du lịch.

- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Quảng Bình.

- Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Quảng Bình

Chương 1

CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH

1.1. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong phát triển du lịch

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm nguồn nhân lực

1.1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực

Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của lịch sử, nguồn lực con người (hay là NNL) luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia, dân tộc, bỡi đây là yếu tố quyết định sức mạnh của đất nước. Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế gần đây cũng đã chỉ ra rằng: động lực quan trọng nhất của sự phát triển và tăng trưởng kinh tế bền vững chính là yếu tố con người. Điều này càng được khẳng định trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, khi nền kinh tế nào dựa nhiều vào tri thức sẽ tạo ra nhiều cơ hội phát triển, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực.

Có rất nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau về nguồn NNL. Trong tiếng Anh, NNL thường sử dụng hai từ “Human resources” và “Man Power” - dùng để chỉ khả năng và phẩm chất của lực lượng lao động. Nội dung của khái niệm này không chỉ nói đến số lượng và khả năng chuyên môn, mà còn nói đến trình độ văn hoá, thái độ đối với công việc và mong muốn tự hoàn thiện của lực lượng lao động.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

Theo Liên Hợp quốc, NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước. Theo Ngân hàng thế giới: NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Theo Tổ chức Lao động quốc tế, NNL của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.

NNL được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự

Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực du lịch của tỉnh Quảng Bình - 3

phát triển. Do đó, NNL bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, NNL là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.

Dưới góc độ kinh tế phát triển: NNL là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. NNL được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Như vậy, theo khái niệm này, có một số được tính là NNL nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là: những người không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm, tức là những người không có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học…

Tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, có thể hiểu: NNL là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử, được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.

Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam “Nguồn lực con người là quý báu, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta khi nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất còn hẹp”, “đó là nguồn lao động có trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bỡi nền giáo dục tiên tiến, gắn với một nền khoa học hiện đại” [6].


10

Ngoài ra, một số tác giả khác khi nghiên cứu về NNL và phát triển NNL ở Việt Nam cũng đã đưa ra những quan điểm khác nhau về NNL.

Theo GS.TS Phạm Minh Hạc, “NNL là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước, hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị ở các mức độ khác nhau sẳn sàng tham gia một lao động nào đó, tức là người lao động có kỹ năng, đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công ngiệp hóa, hiện đại hóa" (CNH, HĐH) [12, tr.269].

Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Quân “NNL của tổ chức bao gồm tất cả những người làm việc trong tổ chức đó, còn nhân lực được hiểu là nguồn lực của mỗi con người, mà nguồn lực này bao gồm thể lực và trí lực” [15, tr.8].

NNL của một đất nước được đánh giá trên hai mặt chủ yếu là số lượng và chất lượng. Số lượng NNL được đánh giá bằng các chỉ tiêu: tỉ lệ NNL trong dân số; tỉ lệ lực lượng lao động trong dân số; tỉ lệ tham gia lực lượng lao động của người trong độ tuổi lao động; tỉ lệ lao động có việc làm trong lực lượng lao động… Chất lượng NNL được đánh giá bằng các chỉ tiêu:

- Trạng thái sức khỏe NNL, trong đó chú ý về tuổi thọ bình quân; thể trạng của người lao động; phân loại sức khỏe; chỉ tiêu suy giảm sức khỏe hoặc không có khả năng lao động…

- Chỉ tiêu trình độ văn hóa của NNL, đây là chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh chất lượng NNL và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hóa cao sẽ tạo điều kiện và khả năng tiếp thu, vận dụng có hiệu quả những tiến bộ mới của khoa học công nghệ trong thực tiễn lao động sản xuất, trong các lĩnh vực khác của đời sống.

- Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn - kỹ thuật của NNL được thể hiện bằng tỉ lệ cán bộ, công nhân và người lao động nói chung có trình độ tay nghề, trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học so với NNL lao động chung của cả nước.


11

Ngoài ra, chất lượng NNL còn được đo bằng chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) là thước đo tổng hợp sự phát triển con người trên 3 phương diện: sức khỏe, tri thức, thu nhập và một số chỉ tiêu khác mang tính định tính về môi trường làm việc của người lao động như truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa, văn minh của dân tộc, phong tục, tập quán, lối sống…

Có thể thấy rằng: quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phản ánh một cách tổng quát khái niệm NNL với cả 3 phương diện: trí lực, thể lực và nhân cách, cùng với cơ sở khoa học cho sự phát triển của các yếu tố đó là nền giáo dục tiên tiến, gắn với nền khoa học hiện đại.

Như vậy, từ những quan niệm của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, đa số các ý kiến đều cho rằng: NNL là tổng hòa của thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử cùng với khoa học được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.

Trong thời đại ngày nay, con người được xem một “tài nguyên” đặc biệt, một nguồn lực quan trọng của sự phát triển. Chính vì lẽ đó, việc phát triển con người, phát triển NNL đang chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố đảm bảo cho sự phát triển bền vững, thịnh vượng của đất nước. Việc đầu tư để phát triển nguồn lực con người là đầu tư chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.

NNL của mỗi tổ chức là bộ phận cấu thành NNL của xã hội, đó là tất cả những ai làm việc trong tổ chức, từ người thủ trưởng cao nhất đến những nhân viên phục vụ làm việc chân tay trong tổ chức đó. NNL của tổ chức có những đòi hỏi, yêu cầu riêng tùy theo chức năng, nhiệm vụ, tính chất công việc của tổ chức đó. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với mỗi tổ chức là phải xây

dựng chiến lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung NNL cho tổ chức một cách khoa học, hợp lý. Mặt khác, khi NNL của xã hội đáp ứng yêu cầu của tổ chức thì tổ chức có thể tiếp nhận, sử dụng phục vụ nhiệm vụ của tổ chức. Xu thế cạnh tranh để có NNL xã hội phù hợp với NNL tổ chức hiện nay là tất yếu và đang tiếp diễn ở mức độ cao hơn trong thời gian tới, thể hiện ở các dạng, cụ thể là: cạnh tranh thu hút nhân tài, cạnh tranh thị trường lao động có tay nghề cao và chuyên môn giỏi, cạnh tranh thị trường lao động có chi phí rẻ.

1.1.1.2. Đặc điểm nguồn nhân lực

Với vai trò là tiềm năng lao động của mỗi lãnh thổ, mỗi quốc gia, thì NNL là tài nguyên cơ bản nhất. Nghiên cứu NNL, cho thấy có một số đặc điểm như sau:

- NNL là nguồn lực cơ bản nhất, có tính chất quyết định sự phát triển của xã hội hay tổ chức.

- NNL là yếu tố trung tâm quyết định trực tiếp đến quá trình tổ chức quản lý sản xuất.

NNL của mỗi quốc gia, tổ chức được cấu thành bởi 3 yếu tố cơ bản sau:

+ Thứ nhất: Số lượng NNL chính là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực lượng lao động được xác định dựa trên quy mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính, sự phân bố dân cư theo khu vực và lãnh thổ. Ngoài ra, còn là sự thể hiện nguồn tăng nhân lực hằng năm.

+ Thứ hai: Chất lượng NNL thể hiện ở mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của NNL, được biểu hiện thông qua các tiêu chí: sức khỏe, trình độ chuyên môn, trình độ học vấn và phẩm chất tâm lý xã hội.

Chất lượng NNL là khái niệm tổng hợp, bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái trí lực, thể lực, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của NNL. Chất lượng NNL do trình độ phát triển kinh tế - xã hội và chính sách đầu tư phát triển NNL của chính phủ quyết định.

Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng NNL là sự kết hợp giữa trí lực, thể lực và tâm lực.

Ở đây, trí lực là năng lực của trí tuệ, quyết định phần lớn khả năng lao động sáng tạo của con người. Trí tuệ được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu của NNL con người, bỡi tất cả những gì thúc đẩy con người hành động phải thông qua đầu óc của họ. Khai thác và phát huy tiềm năng trí tuệ trở thành yêu cầu quan trọng nhất của việc phát huy nguồn lực con người. Gồm trình độ tổng hợp từ văn hóa, chuyên môn, kỹ thuật, kỹ năng lao động. Trình độ văn hóa, với một nền tảng học vấn nhất định, là cơ sở cho phát triển trình độ chuyên môn kỹ thuật. Trình độ chuyên môn kỹ thuật là điều kiện đảm bảo cho NNL hoạt động mang tính chuyên môn hóa và chuyên nghiệp hóa. Kỹ năng lao động theo từng ngành nghề, lĩnh vực là một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong phát triển NNL ở xã hội hiện đại.

+ Thứ ba: Cơ cấu NNL, đây là yếu tố không thể thiếu khi xem xét, đánh giá về NNL của một quốc gia hay địa phương, ngành, lĩnh vực. Cơ cấu nhân lực thể hiện trên các phương diện khác nhau như: cơ cấu trình độ đào tạo, giới tính, độ tuổi,… Cơ cấu NNL của một quốc gia nói chung hay của tổ chức nói riêng được quyết định bởi cơ cấu đào tạo và cơ cấu kinh tế, theo đó sẽ có một tỷ lệ nhất định về nhân lực.

1.1.2. Vai trò nguồn nhân lực trong nền kinh tế

Cùng với khoa học và công nghệ, vốn đầu tư, NNL có vai trò quyết định đến sự thành công của đất nước, tổ chức. NNL có vai trò rất quan trọng, cụ thể như sau:

- Vai trò của NNL đối với việc xây dựng nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

Xét trên cả hai phương diện lý thuyết và thực tiễn, nếu chất lượng NNL kém sẽ dẫn đến năng suất lao động thấp, làm cho năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp, tiềm lực kinh tế, an ninh, quốc phòng sẽ bị ảnh hưởng, làm cho

đất nước phát triển thiếu bền vững. Ngược lại, khi có NNL chất lượng cao thì việc triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ sẽ thuận tiện hơn, làm cho nhà nước hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả, tiến bộ hơn.

- Vai trò của NNL đối với việc hình thành và phát triển cơ cấu ngành nghề hiện đại.

Một quốc gia muốn phát triển, không có sự lựa chọn nào khác là phải nâng cao chất lượng NNL. Trong xu thế toàn cầu hóa và phát triển nền kinh tế tri thức, thì yếu tố tạo nên sự phát triển cạnh tranh của quốc gia đó là phải tập trung phát triển NNL, nhất là NNL CLC - đây là yếu tố quan trọng hàng đầu, có tính chất quyết định để xây dựng cơ cấu ngành nghề hiện đại.

- Vai trò quyết định đến trình độ phát triển kinh tế - xã hội.

Một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững ít nhất phải dựa vào khoa học công nghệ hiện đại, kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại và chất lượng NNL cao. Trong đó, NNL CLC quyết định đến trình độ phát triển kinh tế - xã hội, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật của quốc gia. NNL CLC đóng vai trò quan trọng trong dịch chuyển cơ cấu kinh tế và lao động, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Một quốc gia có điều kiện tự nhiên có thể không thuận lợi, không giàu về tài nguyên, song nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu hội tụ được 3 điều kiện cơ bản sau: có đường lối kinh tế đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó; có đội ngũ lao động chất lượng cao và đông đảo; có đội ngũ DN giỏi. Cả 3 điều kiện này đều gắn với NNL CLC.

- NNL là điều kiện đảm bảo thực hiện những bước nhảy vọt và rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế và khoa học công nghệ.

Qua tìm hiểu, một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển kinh tế có nguyên nhân do thiếu cơ sở vật chất, sự thiếu nguồn vốn, nhưng chủ yếu nhất vẫn là sự hạn chế về trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người. Do đó, NNL CLC có vai trò quan trọng trong việc thực hiện

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/12/2023