càng phức tạp. Nói cách khác là cần sớm xây dựng và ban hành luật GDĐH. Luật GDĐH là sự lập pháp quốc gia phải đảm bảo khuôn khổ chiến lược dài hạn, cần được tách bạch với điều lệ trường và quy chế của trường đại học (Fielden, 2008) [81, tr. 50]. Luật này có thể điều chỉnh nhiều quan hệ, nhưng không thể thiếu các quy định dưới đây:
- Đảm bảo sự phối hợp lợi ích trong khuôn khổ chiến lược quốc gia, nhu cầu thích nghi và thay đổi của trường đại học, nhất là tránh việc tạo ra những “rào cản” làm hạn chế sự linh hoạt của người học và của trường đại học.
- Sự công nhận của Nhà nước đối với trường đại học và sự tương đương
bằng cấp.
- Tạo điều kiện và khuyến khích phát triển các nhà cung cấp dịch vụ GDĐH ngoài nhà nước, bảo đảm quản lý được các nhà cung cấp dịch vụ GDĐH nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Đây là vấn đề mang tính cấp bách trong bối cảnh mà Việt Nam ngày càng tham gia sâu vào “sân chơi” toàn cầu.
- Xác định rõ địa vị pháp lý của cơ sở GDĐH như thực thể pháp lý tự chủ, phân định rõ địa lý pháp lý của các trường công lập, ngoài công lập, vì lợi nhuận, không vì lợi nhuận. Đảm bảo tính trực tiếp và cụ thể của các quyền tự chủ tới mức có thể đối với các vấn đề về học thuật của trường đại học để thay thế các quy định mang tính khung và đan xen như hiện nay. Các trường có thể sử dụng trực tiếp quyền của mình mà không cần phải chờ cho phép lại của các cơ quan QLHCNN có thẩm quyền. Đảm bảo sự tách bạch giữa quyền tự chủ với tự chịu trách nhiệm và làm rõ nội hàm của chúng. Nội hàm cần phù hợp thông lệ quốc tế và cách hiểu chung, nhất là đảm bảo tính thống nhất và hệ thống. Quy định tự chịu trách nhiệm có sự phân định giữa trách nhiệm pháp lý, hành chính và xã hội, và cần xác định rõ nội dung và cách thức chịu trách nhiệm.
Kết quả khảo sát ý kiến các nhà quản lý GDĐH qua Bảng 3.4, Mục 4, cho thấy 89% ý kiến (M=3,40) mong muốn xác lập trường đại học là thực thể pháp lý tự chủ thông qua luật. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa ý kiến các nhà quản lý
trường đại học (M=3,50) và các nhà quản lý bên ngoài trường (M=2,96) cho thấy đòi hỏi tự chủ của các nhà quản lý cấp trường thì nhiều hơn của các nhà QLNN.
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Chỉ Số Phát Triển Giáo Dục Đại Học Việt Nam Đến Năm 2020
- Mô Hình Bảo Đảm Tự Chủ, Tự Chịu Trách Nhiệm
- Xoá Cơ Chế Chủ Quản, Tách Bạch Giữa Quản Lý Nhà Nước Và Quản Lý Của Nhà Nước Với Tư Cách Chủ Sở Hữu, Xây Dựng Các Tổ Chức Đệm
- Đổi Mới Quản Lý Nhà Nước Về Giáo Dục Đại Học Đối Với Giảng Viên
- Đổi Mới Phương Thức Quản Lý Tài Chính, Tách Bạch Giữa Quản Lý Nhà Nước Và Quản Lý Của Nhà Nước Với Tư Cách Là Chủ Sở Hữu
- Đổi Mới Hoạt Động Kiểm Soát Và Giám Sát Nhà Nước Về Tài Chính
Xem toàn bộ 239 trang tài liệu này.
- Quyền và trách nhiệm của Hội đồng trường, nhất là mối quan hệ quản trị và quản lý trong nhà trường.
- Chức năng và thẩm quyền của các cơ quan QLNN và các tổ chức chuyên môn tham gia quản lý các trường đại học; chức năng quản lý chủ yếu mà Nhà nước cần nắm giữ để giám sát có hiệu quả các trường.
- Quản lý, kiểm định chất lượng và đánh giá kết quả thực hiện của trường đại
học và kết nối các kết quả này với các chính sách KT-XH khác.
- Việc thiết lập hệ thống công tác tài chính, lập ngân sách; quyền sở hữu; việc ban hành tiêu chuẩn công nhận và chứng nhận hoạt động của các loại trường đại học.
- Việc kiểm tra và giám sát của Nhà nước, công cụ được sử dụng chính thức
toàn hệ thống.
Trong tương lai gần, đội ngũ giảng viên cần được tiêu chuẩn hóa về chuyên môn và hoạt động nghề nghiệp. Đồng thời, mối quan hệ lao động và việc làm trong các trường đại học có thể sẽ đơn giản hơn nhưng trở nên “nguy hiểm” xét ở cả phương diện truyền thống và kinh tế. Khi mối quan hệ lao động giữa giảng viên và nhà trường thay đổi, chủ yếu dựa trên các hợp đồng lao động thì cũng là lúc vị thế “người nhà nước” của giảng viên sẽ không còn như trước. Giảng viên có thể bị sa thải không phải do năng lực kém mà là do vấn đề tài chính. Địa vị xã hội có tính truyền thống của nhà giáo sẽ thay đổi. Điều này đòi hỏi phải phải xây dựng và ban hành luật giảng viên (hay hệ thống quy định về giảng viên). Yêu cầu khách quan này được thực hiện sẽ lấp chổ cho các quy định về giảng viên với địa vị là công chức như hiện nay. Bên cạnh những quy định về tiêu chuẩn chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, thì luật giảng viên viên, tối thiểu, cần đề cao hơn nữa vai trò và trọng trách người thầy trong trường đại học trong bối cảnh mới của đất nước. Điều này cần được thể hiện qua các quyền và nghĩa vụ pháp lý chính thức. Đặc biệt, cần bảo vệ và phát huy quyền và nghĩa vụ của người dạy, nhất là tự chủ học thuật và sáng
tạo của nhà giáo, nhà nghiên cứu trong trường đại học (cho cả các trường ngoài công lập). Đảm bảo thẩm quyền khoa học độc lập của nhà giáo và nhà nghiên cứu. Xa hơn là khẳng định và phát huy được yếu tố con người. Một số quy định dưới đây cần được nhấn mạnh trong luật giảng viên là:
- Tiêu chuẩn về chuyên môn và nghề nghiệp làm cơ sở cho việc tuyển chọn, xác định chức trách giảng viên.
- Cách thức xác định, phân bổ và kiểm soát khối lượng giảng dạy, nghiên cứu (lao động chuyên môn) với các quy chuẩn cụ thể.
- Quyền và trách nhiệm tự chủ về học thuật của giảng viên, việc tham gia các hoạt động chuyên môn bên ngoài nhà trường và bên ngoài quốc gia, trách nhiệm sáng tạo và chuyển giao tri thức mới cho cộng đồng.
- Tiêu chuẩn, quy trình xem xét bổ nhiệm và thời hạn duy trì chức danh.
- Khuyến khích sự nâng cao trình độ chuyên môn của giảng viên.
- Trình tự nhận xét, đánh giá giảng viên chính thức.
- Nội dung và hình thức bảo vệ và tự bảo vệ quyền là lợi ích hợp pháp của
giảng viên cả về học thuật và lao động.
Một số biện pháp cụ thể cần thực hiện cho đến khi ban hành luật về giảng viên là cần quy định chuẩn nghề nghiệp, việc lựa chọn, tuyển dụng, đánh giá và trả lương cho giảng viên. Có chính sách khuyến khích trả lương theo chất lượng, thành tích hay hiệu quả công việc nhằm tạo động lực thúc đẩy và tăng tính chủ động trong giảng dạy và nghiên cứu; kích lệ tính tự chủ học thuật. Ngoài ra, cũng cần ban hành chính sách hỗ trợ việc nâng cao năng lực ra quyết định của các cấp quản lý trường đại học, thúc đẩy sáng kiến cải tiến liên tục nhằm tạo động lực phát triển trường đại học.
Để bảo đảm hệ thống đại học công bằng, hiệu quả và chất lượng, Nhà nước
cần xây dựng và ban hành các chính sách dưới đây:
- Công bằng trong GDĐH, đảm bảo sự tiếp cận GDĐH dựa trên các tiêu chuẩn và tiêu chí công bằng và hiệu quả.
- Khuyến khích các trường phát triển các chương trình đào tạo và nghiên cứu đa dạng.
- Thiết lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển của mọi loại hình trường.
- Tạo sự cạnh tranh lành mạnh và ý thức phấn đấu trong đội ngũ giảng viên thông qua việc thực hiện chế độ hợp đồng lao động. Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, không chỉ công lập mà còn cho cả ngoài công lập.
- Đa dạng hóa các nguồn lực tài chính cho các trường đại học.
- Hỗ trợ cho người học theo đuổi các chương trình đào tạo thông qua các
hình thức trợ giúp đa dạng như cho vay, cấp học bổng, hỗ trợ chổ ở v.v...
- Phân bổ nguồn lực công minh bạch, thúc đẩy việc tăng cường chất lượng và hiệu quả. Phân bổ ngân sách rõ ràng và có thể dự đoán để giúp các trường lập kế hoạch hoạt động chủ động.
- Bảo đảm tự chủ theo cách tăng nguồn lực sử dụng và ấn định quy mô sinh
viên.
- Đảm bảo chất lượng, hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng và đánh giá
kết quả thực hiện của trường đại học; duy trì sự tương xứng và đẩy mạnh hoạt động
gắn đào tạo với sử dụng.
- Cơ chế phối hợp giữa Nhà nước và xã hội. Khuyến khích sự tham gia của các tổ chức ngành nghề, nghề nghiệp, hội khoa học vào các phần việc hỗ trợ quản lý các trường đại học có tính chuyên môn như kiểm định, đánh giá, tư vấn hay phản biện khoa học. Qua đó, góp phần tăng sự đồng thuận xã hội và cộng đồng trách nhiệm trong hoạt động GDĐH.
3.3.3. Xây dựng thể chế và chính sách đảm bảo sự can thiệp phù hợp, hạn chế trao quyền mang tính đặc quyền, tự chủ về học thuật, tài trợ công tích cực, thành lập trường đạt yêu cầu chất lượng và trách nhiệm lãnh đạo.
Trước hết, hoàn thiện thể chế và chính sách bảo đảm tự chủ, tự chịu trách nhiệm đòi hỏi xây dựng khuôn khổ đảm bảo sự can thiệp phù hợp của Nhà nước. Yêu cầu này có thể thực hiện theo hai cách, i) hoặc là các cơ quan QLNN thu hẹp thẩm quyền, ii) hoặc là tăng quyền tự chủ của trường đại học. Việc kết hợp cả hai
cách thì phù hợp với khung cảnh thể chế mang tính tập trung ở nước ta hiện nay. Cần sớm điều chỉnh các quy định có thể dẫn tới các can thiệp không cần thiết từ gốc độ quản lý vĩ mô của các cơ quan QLNN về GDĐH. Một biện pháp có thể thực hiện ngay là sửa đổi quy định, tháo gỡ sự chủ quản ghi trong Điều lệ Trường đại học. Điều này giúp tạo môi trường pháp lý tự chủ thực chất hơn. Thể chế hóa nguyên tắc đảm bảo sự chủ động cao của trường đại học, dành quyền ra quyết định nhiều nhất cho cấp trường cũng là giải pháp tích cực. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi năng lực tự quản cao trong khi năng lực tự chủ lại là “điểm yếu” của nhiều trường đại học Việt Nam.
Kế đến, các cơ quan QLNN tiến hành rà soát để từng bước bãi bỏ các quy định trao quyền theo kiểu đặc quyền. Các quy định này thường được ban hành thông qua văn bản dưới luật có tính cá biệt, ví dụ như các quy định về trường trọng điểm, trường quốc tế hay đào tạo chương trình tiên tiến. Về nguyên tắc là không nên duy trì việc hình thành một nhóm trường có quyền và lợi thế riêng nào đó mặc dù điều này có thể được lý giải là để đáp ứng yêu cầu thực hiện các ưu tiên và chiến lược quốc gia. Bởi vì làm như thế sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các tổ chức đại học. Giải pháp tích cực là thay vì quy định quyền hạn và trách nhiệm mang tính đặc quyền, Nhà nước có thể áp dụng các chính sách cạnh tranh để thúc đẩy sự tham gia thực hiện các ưu tiên và chiến lược quốc gia của toàn hệ thống đại học. Ngoài ra, Nhà nước cũng nên sớm xây dựng khung pháp lý cho loại hình trường có yếu tố nước ngoài hay cho các chương trình “nhập cảng” nhằm đảm bảo công bằng trong đào tạo. Đây là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Thứ ba, đó là cần tập trung hoàn thiện quy định quản lý về học thuật để giúp các trường đại học tự chủ một cách triệt để và mang tính hệ thống hơn. Bộ GD&ĐT cần quy định việc quản lý chương trình đào tạo theo khung chương trình thay vì theo chương trình khung như hiện nay. Theo đó, Bộ GD&ĐT chỉ cần quy định về cấu trúc, cơ cấu và khối lượng kiến thức tối thiểu; khung thời gian đào tạo; quy trình xây dựng chương trình và nhất là điều kiện học thuật tối thiểu cần phải có. Nhà nước cũng cần quy định chuẩn khoa học khung trình độ và tiêu chuẩn năng lực
đào tạo cho từng ngành đào tạo để làm cơ sở xem xét việc mở và giao quyền mở ngành đào tạo, nhất là đối với ngành chưa có trong Danh mục ngành đào tạo. Ngoài ra, cần ban hành chính sách khuyến khích vật chất đối với các trường mở chương trình đạo tạo đáp ứng tốt nhu cầu xã hội.
Để đáp ứng nhu cầu đào tạo trong nền KTTT, xây dựng xã hội học tập và bảo đảm sự thuận tiện trong hoạt động đào tạo của trường đại học, Nhà nước cần hướng dẫn công nhận giá trị chuyển đổi kết quả học tập của người học.
Trong quản lý tuyển sinh, Bộ GD&ĐT cần quy định điều kiện tối thiểu vào học đại học. Tuy nhiên, về lâu dài thì cần quy định và sử dụng một hệ thống đánh giá trình độ đa dạng, có thể thay thế cho nhau, để làm cơ sở cho việc xét tuyển vào đại học. Sớm quy định tiêu chuẩn xét tuyển và xác định chỉ tiêu tuyển trên cơ sở dựa trên điều kiện đảm bảo chất lượng, chế độ công khai thông tin tuyển sinh, sự thanh tra và kiểm tra chặt chẽ, nhất là dựa trên chính sách định hướng tuyển sinh thông qua việc cấp học bổng hay tín dụng cho người học. Quy định quy trình tuyển công khai cũng là biện pháp cần thiết. Đặc biệt, cần quy định cấm hành vi phân biệt đối xử cũng như chế tài nghiêm khắc đối với hành vi sai phạm trong tuyển sinh.
Trong quản lý bằng cấp, cần quy định về điều kiện hay tiêu chuẩn cấp văn
bằng cũng như về công nhận tương đương văn bằng.
Ngoài ra, để các trường đại học chủ động trong hoạt động hợp tác quốc tế, Nhà nước cần nghiên cứu trao quyền tự chủ cho các trường có đủ năng lực hợp tác để tăng cường sự chủ động và sáng tạo của các trường.
Thứ tư, Nhà nước cần ban hành chính sách tài trợ công tích cực, dựa vào thành tích giảng dạy và nghiên cứu, sự khuyến khích các tài năng mới, sự tiến bộ trong đảm bảo công bằng. Đồng thời, quy định việc khoán chi ngân sách triệt để các trường chủ động hơn trong bố trí chi tiêu, lựa chọn ưu tiên trong thực hiện nhiệm vụ. Quy định định mức chi phí ngành đạo tạo, học phí và mức hỗ trợ của NSNN đối với từng nhóm ngành. Bên cạnh đó, quy định việc sử dụng các chỉ số kết quả thực hiện và kết quả kiểm định chất lượng hay xếp hạng trường để xét phân bổ NSNN. Quy định phân bổ ngân sách cho nghiên cứu khoa học cần hướng đến việc đảm bảo
tính hiệu quả KT-XH của các hoạt động nghiên cứu và thị trường hóa kết quả nghiên cứu. Quy định cơ chế huy động sự đóng góp của xã hội cho GDĐH làm cơ sở cho việc chủ động huy động nguồn lực ngoài nhà nước của trường đại học.
Thứ năm, đó là hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến công tác đảm bảo chất lượng GDĐH nói chung và kiểm định chất lượng nói riêng. Các cơ quan QLNN có thẩm quyền thực hiện rà soát và ban hành quy định và thủ tục liên quan đến việc thành lập trường đại học nhằm bảo đảm trường được thành lập đạt yêu cầu về chất lượng. Đặc biệt, cần phân định rõ trách nhiệm và việc chịu trách nhiệm trong quyết định thành lập trường. Ban hành quy định bắt buộc các trường phải chịu sự kiểm tra trên thực tế khi mở ngành đào tạo mới; hạn chế tối đa việc cho “nợ” các điều kiện đảm bảo chất lượng.
Việc quy định thực hiện kiểm định chất lượng bắt buộc (tối thiểu) và xếp hạng định kỳ để bảo đảm tất cả các trường được kiểm định chất lượng định kỳ trong một khoảng thời gian từ 3 đến 5 năm thì cũng cần thiết. Đồng thời, ban hành quy định về tổ chức kiểm định độc lập nhằm đẩy nhanh tiến độ đánh giá ngoài và công nhận các trường đại học và các chương trình giáo dục đạt chuẩn chất lượng. Đặc biệt, quy định phân cấp việc quản lý và triển khai đánh giá chất lượng, tổ chức hoạt động kiểm định chất lượng độc lập hoạt động theo mô hình doanh nghiệp và đánh giá các tổ chức tham gia các hoạt động đánh giá và kiểm định. Cũng không thể thiếu quy định bảo đảm cơ cấu tổ chức và hoạt động Hội đồng Quốc gia Kiểm định Chất lượng có sự tham gia nhiều hơn của các thành phần từ ngoài khu vực nhà nước, nhất là các hiệp hội nghề nghiệp.
Thứ sáu, ban hành chính sách khuyến khích các trường chủ động tham gia đánh giá chương trình, kết quả thực hiện, kể cả tham gia kiểm định trường, chương trình với các tổ chức đánh giá và kiểm định quốc tế. Cần có chính sách bảo đảm sự tham gia hỗ trợ và giám sát chất lượng của lực lượng xã hội. Nhất là có chính sách lâu dài tiến tới hình thành văn hoá chất lượng, một nền tảng bảo đảm tự chịu trách nhiệm tích cực nhất.
Sau cùng, cần pháp lý hoá trách nhiệm lãnh đạo và chịu trách nhiệm về lãnh đạo của tổ chức Đảng ở từng cấp quản lý trường đại học. Hướng dẫn và quy định cụ thể thẩm quyền và cơ chế phối hợp trách nhiệm giữ tổ chức Đảng và Hội đồng trường, đặc biệt là trách nhiệm của người đại diện cho tổ chức Đảng tham gia vào Hội đồng trường nhằm đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong khi Hội đồng trường có thể thực hiện chức năng quản trị cao nhất. Biện pháp mang tính kỹ thuật hơn là định lại cơ cấu thành viên trong việc ra quyết định của Hội đồng trường.
3.4. Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học đối với chương trình đào
tạo, tuyển sinh, văn bằng và giảng viên
3.4.1. Đổi mới quản lý nhà nước về chương trình, tuyển sinh và văn
bằng
Để trường đại học chủ động trong đào tạo và nghiên cứu, đáp ứng nhu cầu xã
hội và duy trì chất lượng thì Nhà nước cần đổi mới quản lý về chương trình, tuyển sinh và văn bằng, bảo đảm cho các trường được quyết định nội dung và cách thức đào tạo và nghiên cứu, tiêu chuẩn và việc tổ chức tuyển chọn sinh viên, tiêu chuẩn và việc cấp văn bằng. Việc đổi mới thì rất cần thiết bởi vì mặc dù Nhà nước đã từng bước phân cấp cho các trường về tổ chức các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và cấp bằng nhưng do thiếu triệt để nên nó chưa bảo đảm cho một trường thực hiện tốt chức năng xã hội của nó.
Trước tiên, để bảo đảm tự chủ, tự chịu trách nhiệm về chương trình, Nhà nước cần thay đổi phương thức quản lý chương trình đào tạo. Thay vì quy định và trực tiếp tổ chức biên soạn chương trình khung, Bộ GD&ĐT chỉ cần quản lý khung chương trình, trao quyền xây dựng và phát triển chương trình một cách triệt để cho các trường hội đủ điều kiện. Đây không phải là sự từ bỏ trách nhiệm quản lý chương trình mà là thay đổi cách thức quản lý. Nhà nước thực hiện quản lý chương trình thông qua quy định chung về khung chương trình gồm cấu trúc, cơ cấu và khối lượng kiến thức, khung thời gian đào tạo, mức trình độ hay chuẩn đầu ra và các học phần bắt buộc (nếu cần) buộc tuân thủ. Một trường đại học căn cứ vào khung chương trình và Danh mục ngành nghề đào tạo quốc gia để xây dựng, phát triển