Tiêu Chí Đánh Giá Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kiểm Toán Độc Lập


thực hiện quản lý KTĐL, cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý? Mỗi quốc gia sẽ thiết kế bộ máy QLNN đối với KTĐL khác nhau tùy thuộc vào mô hình quản lý công và sự uỷ quyền, trao quyền của pháp luật. Thực tiễn hiện nay có hai mô hình QLNN đối với KTĐL phổ biến sau:

Mô hình tự quản có sự giám sát của Nhà nước

Quản lý theo mô hình tự quản được thực hiện tại các quốc gia theo đuổi quản lý công và đánh giá hoạt động của các tổ chức thuộc cơ cấu Chính phủ dựa trên kết quả công việc. Bộ máy quản lý KTĐL được thực hiện bởi Ủy ban Giám sát hoạt động kiểm toán với chức năng của cơ quan QLNN và Hiệp hội kế toán viên công chứng với chức năng của tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán. Mô hình này có ưu điểm, tổ chức nghề nghiệp quản lý có kiến thức, kinh nghiệm và đáp ứng kịp thời các vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn nghề nghiệp.

Nhưng từ sau năm 2002, sự kiện Enron với sự sụp đổ của hãng kiểm toán Arthur Andersen, một trong 5 tổ chức kiểm toán lớn nhất thế giới (Big5), cho thấy mô hình tự quản bộc lộ nhiều hạn chế và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của công chúng. Kể từ đây, các quốc gia theo đuổi mô hình này đã chuyển sang mô hình tự quản lý có sự giám sát của Nhà nước nhằm giảm chức năng quản lý của tổ chức nghề nghiệp và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước đối với KTĐL.

Mô hình quản lý theo luật định

Theo mô hình này, quản lý KTĐL được ủy quyền cho một cơ quan Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội theo luật định. Chính phủ sẽ giao cho các cơ quan chuyên trách thực hiện QLNN đối với KTĐL (Bộ Tài chính, Ủy ban giám sát hoạt động kiểm toán, UBCK, …). Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán thực hiện tham gia quản lý theo sự uỷ quyền, trao quyền của Nhà nước được quy định trong hiến pháp và pháp luật.

Bên cạnh cơ quan chuyên trách thực hiện quản lý KTĐL, Chính phủ còn cho phép thành lập hội đồng tư vấn hoặc ủy ban chuyên môn nhằm tập hợp các chuyên gia có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực với mục đích làm cho các quy chế quản lý KTĐL mềm dẻo hơn và tăng cường tính được chấp nhận rộng rãi bên cạnh việc phải chấp hành theo yêu cầu của luật định.

Mô hình quản lý theo luật định có ưu điểm là tính tuân thủ cao, lợi ích xã hội luôn được nhấn mạnh. Tuy nhiên các vấn đề khác liên quan đến sự chậm trễ của các cơ quan nhà nước, tính quan liêu, khả năng bị “chính trị hóa” của các chính sách và pháp luật luôn tồn tại.

Dù thực hiện theo mô hình quản lý nào thì cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý KTĐL cũng được thực hiện như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 218 trang tài liệu này.


Quốc hội, Nghị viện, Chính phủ: Là cơ quan QLNN chịu trách nhiệm cao nhất ban hành khung pháp lý đối với KTĐL.

Quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập ở Việt Nam - 8

Các cơ quan QLNN trực tiếp và các cơ quan QLNN có liên quan: Là cơ quan hoạch định, xây dựng chính sách và quản lý giám sát KTĐL. Yêu cầu của sự phân cấp quản lý là tách bạch giữa cơ quan quản lý và cơ quan giám sát. Cơ quan quản lý có trách nhiệm xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn, trong đó: cơ quan quản lý trực tiếp, quyết định những vấn đề tổng thể, liên ngành, tạo sự đồng thuận giữa các bộ, ngành, thống nhất trong quản lý KTĐL; các cơ quan quản lý trong các lĩnh vực có liên quan, phối hợp hoạt động đảm bảo quản lý hiệu quả. Cơ quan giám sát thực hiện giám sát tuân thủ pháp luật và giám sát chất lượng chuyên môn nghiệp vụ và tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội để phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực KTĐL.

Ủy ban chuyên môn: Thực hiện ban hành, công bố, soát xét, sửa đổi và chấp thuận các CMKiT, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và tham gia ý kiến của các bên liên quan để đạt được sự đảm bảo hợp lý trong mục tiêu, yêu cầu, hướng dẫn áp dụng, các giải thích khác trong từng chuẩn mực.

Hội đồng tư vấn: Thực hiện tư vấn cho Chính phủ về quản lý và giám sát KTĐL. Hội đồng tư vấn với sự tham gia của các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực sẽ tăng cường tính được chấp nhận rộng rãi của các CMKiT.

Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán: Là hiệp hội nghề nghiệp chuyên nghiệp chịu trách nhiệm quản lý KTV, DNKiT và kiểm soát chất lượng kiểm toán theo sự uỷ quyền, trao quyền của Nhà nước.

Quy trình tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật

Tổ chức tập huấn

Để quá trình tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật đối với KTĐL đảm bảo sự tuân thủ của các đối tượng chịu sự điều chỉnh và sử dụng hợp lý tiết kiệm nhất các nguồn lực, cần thiết phải tổ chức tập huấn. Cơ quan QLNN phải phối hợp với các tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán thực hiện tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ, phổ biến các chính sách và pháp luật, giải trình những tác động từ các chính sách đến các DNKiT, KTV, đơn vị được kiểm toán. Bên cạnh đó, để nâng cao năng lực nguồn nhân lực, trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết khi thực hiện các giải pháp chính sách, đối tượng tập huấn còn là các cán bộ trong bộ máy QLNN.

Truyền thông và tư vấn

Các chính sách và pháp luật phải công bố công khai và kịp thời, tạo thuận lợi cho các DNKiT, KTV và các đối tượng quan tâm cập nhật, tra cứu và sử dụng. Việc công bố công khai kết hợp với truyền thông giúp các bên liên quan hiểu nội dung và thực


hiện các chính sách, pháp luật đạt hiệu quả cao. Cơ quan QLNN phải tổ chức truyền thông có định hướng, minh bạch, công khai, giúp cho các chính sách và pháp luật đi vào cuộc sống của doanh nghiệp, kịp thời, đúng địa chỉ hợp pháp, hợp lý. Thông qua hoạt động truyền thông và tư vấn, các bên liên quan được tiếp cận thông tin, có quyền trình bày các ý kiến, quan điểm khi các chính sách và pháp luật được ban hành. Với những chính sách và pháp luật có thể xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên liên quan, Nhà nước phải tăng cường tư vấn, công bố đầy đủ bảo đảm quyền tiếp cận thông tin và cập nhật rõ ràng, dễ truy cập và dễ hiểu đối với các đối tượng thực thi chính sách.

Triển khai và phối hợp hoạt động

Để các chính sách và pháp luật về KTĐL có tính hiệu lực và thực hiện đạt hiệu quả, trong quá trình triển khai và tổ chức thực hiện, cơ quan QLNN trực tiếp phải phối hợp chặt với các cơ quan QLNN có liên quan và tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán nhằm huy động tối đa sức mạnh và nguồn lực của các bên tham gia. Với tính chất đặc thù của KTĐL, quá trình triển khai và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật cần có phối hợp hoạt động với các tổ chức quốc tế, chủ thể giám sát ở các quốc gia và các DNKiT quốc tế.

Phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy QLNN đối với KTĐL là quá trình liên kết hoạt động và nguồn lực giữa các cơ quan QLNN, các cấp và các tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy QLNN là cần thiết bởi nếu thiếu phối hợp hoặc phối hợp không chặt chẽ sẽ thiếu liên kết, dễ bị trùng lặp, chồng chéo hoặc không đồng bộ. Sự phối hợp được thực hiện giữa các đối tượng, các quá trình sau: Phối hợp giữa các cấp bậc quản lý; Phối hợp giữa cơ quan QLNN trực tiếp và các cơ quan QLNN có liên quan; Phối hợp giữa cơ quan QLNN với tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán.

Bộ máy quản lý càng cồng kềnh sẽ làm gia tăng độ trễ của các quyết định quản lý, giảm hiệu lực và hiệu quả quản lý. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan QLNN không hợp lý sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình quản lý từ hoạch định chính sách, xây dựng thể chế, tổ chức điều hành và kiểm tra, giám sát KTĐL. Một cơ chế phối hợp đồng bộ, phù hợp sẽ đảm bảo cho quá trình quản lý KTĐL được thực hiện một cách nhanh chóng, hiệu quả và đạt được mục tiêu quản lý.

2.2.3.3 Kiểm tra, giám sát kiểm toán độc lập

Kiểm tra, giám sát là chức năng quan trong của QLNN đối với KTĐL. Kiểm tra là hoạt động của các cơ quan quản lý tác động vào các DNKiT, KTV hành nghề nhằm phát huy những nhân tố tích cực; phòng ngừa, phát hiện, phân tích, đánh giá


nguyên nhân, xử lý những vi phạm trong KTĐL. Giám sát là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá của các cơ quan quản lý nhằm thu thập thông tin một cách thường xuyên, liên tục việc tuân thủ pháp luật, yêu cầu của chuẩn mực nghề nghiệp, các quy định có liên quan của DNKiT và KTV hành nghề và sử dụng các thông tin thu thập được nhằm điều chỉnh, hoàn thiện cơ chế, chính sách và đưa ra các biện pháp nhằm đảm bảo cho KTĐL tuân theo đúng định hướng và mục tiêu phát triển đề ra.

Kiểm tra, giám sát là tổng thể các hoạt động của cơ quan quản lý nhằm kịp thời phát hiện và xử lý những sai sót, ách tắc, đổ vỡ, những khó khăn, vướng mắc phát sinh cũng như những cơ hội phát triển nhằm đảm bảo cho KTĐL hoạt động đúng định hướng kế hoạch và hiệu quả. Thông qua kiểm tra, giám sát, đảm bảo việc thực hiện đúng các kế hoạch và mục tiêu phát triển KTĐL, cho phép phát hiện, sửa chữa những sai lầm trong quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật của các DNKiT, KTV hành nghề trước khi chúng trở nên nghiêm trọng. Kiểm tra, giám sát giúp Nhà nước theo sát và đối phó được sự thay đổi của môi trường, tạo ra sự phù hợp của hệ thống các chính sách, pháp luật với môi trường qua đó hoàn thiện các quyết định quản lý của Nhà nước, chiến lược, chính sách và pháp luật đối với KTĐL. Kiểm tra, giám sát KTĐL được xem xét theo các yếu tố cơ bản: chủ thể kiểm kiểm tra, giám sát; nội dung kiểm tra, giám sát; và hình thức kiểm tra.

Chủ thể kiểm tra, giám sát

Tùy thuộc vào từng quốc gia, chủ thể thực hiện kiểm tra, giám sát KTĐL có thể do tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán hoặc do các cơ quan QLNN thực hiện thông qua các biện pháp vĩ mô hay từ áp lực của người sử dụng kết quả KTĐL. Tại các quốc gia, quản lý, giám sát KTĐL theo mô hình tự quản lý có sự giám sát của Nhà nước, chủ thể kiểm tra, giám sát là Ủy ban Giám sát hoạt động kiểm toán, và tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán đặt dưới sự quản lý của Ủy ban Kiểm tra chéo Quốc gia và Ủy ban Giám sát hoạt động kiểm toán. Ủy ban Giám sát hoạt động kiểm toán, hoạt động với có chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước được Quốc hội công nhận. Với các quốc gia, quản lý, giám sát KTĐL theo mô hình luật định, chủ thể kiểm tra, giám sát được thực hiện bởi nhiều cơ quan QLNN chuyên trách như: Ủy ban giám sát kiểm toán, Bộ Tài chính, UBCK và có thêm sự tham gia của tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán theo sự uỷ quyền, trao quyền của Nhà nước.

Nội dung kiểm tra, giám sát

Kiểm tra, giám sát theo định hướng chiến lược và kế hoạch phát triển KTĐL: thực hiện kiểm tra, giám sát dựa vào mục tiêu trong chiến lược và kế hoạch với thực tiễn nếu có sự sai lệch quá mức độ đều cần có sự điều chỉnh nhất định.


Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách và pháp luật đối với KTĐL: nội dung kiểm tra, giám sát nhằm đánh giá việc chấp hành chính sách, pháp luật của các DNKiT và KTV hành nghề. Cơ sở để thực hiện nội dung này là các quy định và thủ tục do cơ quan có thẩm quyền xây dựng và ban hành nhằm đảm bảo cho DNKiT và KTV hành nghề luôn tuân thủ chuẩn mực nghề nghiệp, pháp luật và các quy định có liên quan. Thông qua nội dung kiểm tra nhằm đánh giá tính hiệu lực của các chính sách và pháp luật cũng như việc thực thi của các DNKiT và KTV hành nghề.

Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chức năng của cơ quan QLNN đối với KTĐL: nội dung kiểm tra nhằm đảm bảo việc thực hiện trách nhiệm trong hoạt động của cơ quan QLNN và sự phối hợp hoạt động trong các nhiệm vụ được giao.

Hình thức kiểm tra

Các hình thức kiểm tra bao gồm: kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất và được thực hiện bởi cơ quan QLNN hoặc ủy ban giám sát hoặc dưới hình thức kiểm tra chéo giữa các DNKiT. Trong thực tế, khi thực hiện kiểm tra, cơ quan QLNN thường không có các chuyên gia có chuyên môn, nghiệp vụ sâu về KTĐL, đội ngũ cán bộ thường không có chứng chỉ hành nghề và kinh nghiệm thực hành kiểm toán, do vậy, thường phải huy động KTV có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm thực tế của các DNKiT tham gia kiểm tra. Với đặc thù này, kiểm tra chéo là hình thức kiểm tra hiệu quả nhất và đang được nhiều quốc gia sử dụng.

2.2.4 Tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập

Đánh giá QLNN là một yêu cầu tất yếu của mọi quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ và dân chủ hóa ngày càng mở rộng. Có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng để đánh giá QLNN, nhưng phương pháp phổ biến hiện nay là đánh giá thông qua các tiêu chí. Từng lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế, nội dung tiêu chí đánh giá là khác nhau, song đều bao gồm các nhóm tiêu chí: (1) Tiêu chí hiệu lực; (2) Tiêu chí hiệu quả; (3) Tiêu chí trách nhiệm giải trình, minh bạch, công khai, mức độ tham gia; (4) Tiêu chí công bằng, bình đẳng, phù hợp; và (5) Tiêu chí bền vững. Hai tiêu chí cơ bản, bao trùm đạt được sự đồng thuận cao nhất là hiệu lực và hiệu quả. Các tiêu chí thuộc nhóm (3), trách nhiệm giải trình, minh bạch, công khai, mức độ tham gia là phương tiện để đạt được hiệu lực, hiệu quả cao trong QLNN.

Dựa trên lý thuyết “Quản trị nhà nước tốt” (Good Governance), kết hợp với kết quả nghiên cứu định tính và kế thừa các kết quả nghiên cứu về tiêu chí đánh giá QLNN đối với từng hoạt động trong nền kinh tế: Đào Anh Tuấn (Quản lý nhà nước về thương mại điện tử, 2013); Mai Thị Dung (Quản lý thu bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, 2019); Lê Hà Trang (Quản lý


nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam, 2019), trong phạm vi nghiên cứu, luận án đánh giá QLNN đối với KTĐL thông qua các tiêu chí: Tiêu chí hiệu lực; Tiêu chí hiệu quả; Tiêu chí phù hợp; Tiêu chí bền vững.

2.2.4.1 Tiêu chí hiệu lực

Hiệu lực QLNN là một phạm trù xã hội chỉ mức độ pháp luật được tuân thủ và mức độ hiện thực quyền lực chỉ huy và phục tùng trong mối quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý trong những điều kiện lịch sử nhất định. Hiệu lực QLNN đối với KTĐL là đánh giá mức độ hiện thực quyền lực Nhà nước, uy tín của các cơ quan QLNN, khả năng tác động của cơ quan QLNN đến đối tượng quản lý; mức độ tuân thủ pháp luật và chấp hành chỉ đạo từ các cơ quan QLNN của các DNKiT; mức độ tín nhiệm của các đối tượng quản lý đối với các cơ quan QLNN. Đánh giá hiệu lực QLNN đối với KTĐL dựa trên 3 nội dung cơ bản sau:

Đánh giá thông qua mức độ tuân thủ các quy định pháp luật của đối tượng quản lý: hệ thống chính sách, pháp luật minh bạch, công khai có tính hiệu lực cao được các đối tượng quản lý tuân thủ và thực thi nghiêm túc.

Đánh giá thông qua mức độ hiện thực quyền lực Nhà nước: mức độ thực hiện tổ chức xây dựng và triển khai định hướng phát triển KTĐL; mức độ ban hành pháp luật đầy đủ, đồng bộ, kịp thời tạo điều kiện pháp lý cho KTĐL phát triển; mức độ điều tiết, can thiệp của Nhà nước để KTĐL phát triển đúng hướng; mức độ thực hiện kiểm tra, giám sát KTĐL theo đúng quy trình, công khai minh bạch và tạo điều kiện thuận lợi cho DNKiT phát triển; mức độ xử lý vi phạm nghiêm minh, công khai, minh bạch, bao trùm hết các trường hợp và đủ sức răn đe.

Đánh giá thông qua việc các đối tượng quản lý được tiếp cận thông tin, có quyền trình bày ý kiến, quan điểm khi Nhà nước ban hành chính sách, háp luật liên quan hoặc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ. Sự tham gia rộng rãi của các đối tượng quản lý trong nền kinh tế vào quy trình quản lý và kiểm soát quyền lực Nhà nước thông qua các cơ chế giải trình của của các cơ quan quản lý.

Các chỉ tiêu đánh giá tiêu chí hiệu lực, bao gồm:

Sự đầy đủ, đồng bộ, kịp thời trong soạn thảo, ban hành chính sách và pháp luật đối với KTĐL;

Quy trình, thủ tục đánh giá thực thi chính sách và pháp luật được công bố công khai, rõ ràng, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan QLNN ;

Hoạt động tư vấn, giải đáp và hướng dẫn giải quyết vướng mắc, tồn đọng trong quá trình thực thi chính sách và pháp luật đối với KTĐL đảm bảo đồng bộ;


Cơ chế phát hiện, nhận dạng đúng và dự báo kịp thời các dấu hiệu và hành vi vi phạm tính tuân thủ pháp luật và đảm bảo chất lượng kiểm toán;

Trình tự, thủ tục xử lý vi phạm trong quản lý KTĐL chặt chẽ, nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý và người có thẩm quyền trong công tác xử lý vi phạm;

Các chế tài xử phạt đảm bảo nghiêm minh, công khai, minh bạch, bao trùm hết các trường hợp và đủ sức răn đe;

Mức độ tham gia, phản hồi của các chủ thể trong nền kinh tế và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý trong thực thi quyền lực.

2.2.4.2 Tiêu chí hiệu quả

Hiệu quả là tiêu chí đánh giá trình độ khai thác các yếu tố đầu vào để tạo ra kết quả hoạt động tối đa với chi phí hoạt động tối thiểu, hoặc phản ánh năng suất hoạt động, hiệu suất sử dụng các chi phí đầu vào. Hiệu quả của QLNN là kết quả đạt được trong việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nhất các nguồn lực.

Hiệu quả QLNN đối với KTĐL phản ánh năng suất quản lý, hiệu suất sử dụng kinh phí của bộ máy QLNN là thấp nhất, đồng thời kết quả tổ chức thực hiện là cao nhất. Tính hiệu quả còn được đánh giá bằng mức độ đạt được của nội dung QLNN so với các mục tiêu QLNN đối với KTĐL: kết quả của hoạt động định hướng, ban hành chính sách, kiểm tra, giám sát KTĐL so với các mục tiêu QLNN. Bên cạnh tính hiệu quả về mặt kinh tế, hiệu quả trong QLNN còn đo lường thông qua sự đánh giá về mức độ thực thi chống tham nhũng một cách có hiệu quả, ngăn ngừa, phát hiện gian lận, tham nhũng góp phần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý tài chính, tăng cường hiệu lực QLNN đối với KTĐL.

Các chỉ tiêu đánh giá tiêu chí hiệu quả, bao gồm:

Chính sách và pháp luật đối với KTĐL đáp ứng yêu cầu và mục tiêu QLNN;

Bộ máy QLNN hoạt động hiệu quả đáp ứng yêu cầu quản lý toàn diện, kiểm tra, giám sát liên tục và đảm bảo chất lượng kiểm toán;

Nhân sự QLNN có năng lực, thực hiện hiệu quả chức năng quản lý và giám sát KTĐL;

Sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan QLNN trực tiếp với các cơ quan QLNN thuộc các lĩnh vực có liên quan trong quản lý, giám sát KTĐL;

Quy trình kiểm tra, giám sát được công bố công khai, rõ ràng;

Chính sách và pháp luật cho phép phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng trong hoạt động KTĐL;

Công khai, minh bạch thông tin vi phạm của DNKiT, KTV hành nghề, đơn vị được kiểm toán.


2.2.4.3 Tiêu chí phù hợp

Phù hợp trong QLNN đối với KTĐL đòi hỏi, chính sách, pháp luật phải hài hòa với thông lệ quốc tế, phù hợp với các quy định của luật pháp, đáp ứng yêu cầu quản lý và đạt được sự đồng thuận cao giữa các bên liên quan trong nền kinh tế.

Các chỉ tiêu đánh giá tiêu chí phù hợp bao gồm:

Chính sách và pháp luật đối với KTĐL phù hợp với thông lệ quốc tế và được các tổ chức quốc tế đánh giá cao;

Các quy định đối với KTĐL hài hòa với các quy định và các thỏa thuận quốc tế song phương và đa phương;

Chính sách và pháp luật đảm bảo phù hợp với sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp và sự phát triển của KTĐL;

Chính sách và pháp luật đối với KTĐL đảm bảo giải quyết xung đột, hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan và hỗ trợ thị trường phát triển bền vững;

Chính sách và pháp luật đối với KTĐL đạt được sự đồng thuận cao của các bên liên quan, mang lại niềm tin cho các đối tượng trong nền kinh tế;

Chính sách và pháp luật đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa các DNKiT.

2.2.4.4 Tiêu chí bền vững

Bền vững là tiêu chí đánh giá mức độ ảnh hưởng ổn định thích ứng theo thời gian của kết quả QLNN đối với KTĐL. Tính bền vững trong QLNN phản ánh sự đồng bộ của hệ thống chính sách và pháp luật được ban hành và các tác động tích cực, ổn định, lâu dài của nó. Tiêu chí bền vững đòi hỏi, hệ thống chính sách và pháp luật phải ổn định theo định hướng phát triển lâu dài, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và tháo gỡ khó khăn cho các DNKiT. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách và pháp luật phải nhất quán với các mục tiêu của chiến lược, có tầm nhìn, có tính sáng tạo và thích ứng với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế trong xu thế hội nhập.

Các chỉ tiêu đánh giá tiêu chí bền vững bao gồm:

Chính sách và pháp luật đối với KTĐL có tầm nhìn, có tính sáng tạo và thích ứng với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế trong xu thế hội nhập;

Chính sách và pháp luật đối với KTĐL đảm bảo tính khả thi không xung đột với các quy định pháp lý có liên quan;

Chính sách và pháp luật đối với KTĐL ổn định, đồng bộ và nhất quán với các mục tiêu của chiến lược KTĐL;

Chính sách, pháp luật đối với KTĐL có sự kế thừa và mang tính dự báo cao;

Các quy định trong văn bản pháp luật đối với KTĐL mang tính chất tạo khung pháp lý, không quá chi tiết và không cứng nhắc.

Xem tất cả 218 trang.

Ngày đăng: 02/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí