nhằm giúp đơn vị đạt được các mục tiêu hoạt động, nâng cao hiệu lực quản lý, kiểm soát và quản trị rủi ro.
Theo chuẩn mực Hành nghề kiểm toán nội bộ do Học viện kiểm toán viên nội bộ (IIA), thì “Kiểm toán nội bộ là hoạt động xác nhận và tư vấn mang tính độc lập, khách quan được thiết lập nhằm tạo ra giá trị gia tăng, nâng cao hiệu quả hoạt động của một tổ chức. Kiểm toán nội bộ giúp cho tổ chức đạt được các mục tiêu của mình thông qua việc tạo ra một cách tiếp cận có hệ thống, có tính kỷ luật để đánh giá, nâng cao hiệu lực của quy trình quản trị doanh nghiệp, quy trình kiểm soát và việc quản lý rủi ro”
Kiểm toán với ba phân hệ, KTĐL, KTNN và KTNB luôn có sự khác nhau căn bản về chủ thể kiểm toán nên dẫn đến phân định tương đối về đối tượng kiểm toán, quy trình và phương pháp kiểm toán cũng như sự khác nhau nhất định về mức độ giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán, ý kiến của KTV và những yêu cầu thực hiện kết quả kiểm toán. Mặc dù có sự khác nhau về chủ thể kiểm toán, phạm vi kiểm toán, đối tượng kiểm toán và địa vị pháp lý, song KTĐL, KTNN, KTNB luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể sử dụng kết quả kiểm toán của nhau và cùng thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế - tài chính. Với chức năng là công cụ kiểm soát và là tuyến phòng thủ thứ 3 quan trọng trong quản trị rủi ro của đơn vị, KTNB là cánh tay nối dài của KTNN và KTĐL tại các đơn vị. Sự hiện hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ và chất lượng KTNB luôn ảnh hưởng đến quyết định mở rộng hay thu hẹp phạm vi, quy mô và phương pháp kiểm toán cũng như chất lượng của KTNN và KTĐL.
Ngày nay, kinh tế thị trường càng phát triển, sự mong đợi về độ tin cậy của các thông tin tài chính do tổ chức phát hành càng cao, càng cho thấy vai trò quan trọng của KTĐL trong nền kinh tế. Theo WTO, KTĐL là ngành dịch vụ chuyên môn và là dịch vụ hỗ trợ quan trọng không chỉ đem lại lợi ích phát triển kinh tế mà còn mang lại sự đảm bảo an toàn cho nền kinh tế. Do vậy đã có nhiều khái niệm được đưa ra về KTĐL được hiểu theo cả nghĩa rộng, hẹp khác nhau.
Theo nghĩa rộng: KTĐL là ngành dịch vụ kinh doanh, nhóm dịch vụ chuyên môn do các tổ chức KTĐL cung cấp mà kết quả của chúng làm thay đổi các điều kiện của đơn vị tiêu dùng, hoặc thúc đẩy quá trình trao đổi hàng hóa, hoặc tài sản tài chính.
Theo nghĩa hẹp: KTĐL là sự kiểm tra, xác nhận và đưa ra kết luận của DNKiT và KTV hành nghề về sự đảm bảo của dịch vụ cung cấp dựa trên sự tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán và tính độc lập khách quan.
Theo Hội đồng kiểm toán và các dịch vụ xác nhận Vương quốc Anh (The Audit & Assurance Council –AAC, 2012), "KTĐL là sự kiểm tra độc lập, và bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một đơn vị do KTV được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan”.
Từ những phân tích và các định nghĩa trên, luận án đưa ra khái niệm chung nhất về KTĐL như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nghiên Cứu Về Nội Dung Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kiểm Toán Độc Lập
- Các Nghiên Cứu Về Yếu Tố Ảnh Hưởng Và Tiêu Chí Đánh Giá Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kiểm Toán Độc Lập
- Khái Niệm Và Phân Loại Kiểm Toán Độc Lập
- Mục Tiêu Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kiểm Toán Độc Lập
- Tiêu Chí Đánh Giá Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kiểm Toán Độc Lập
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kiểm Toán Độc Lập
Xem toàn bộ 218 trang tài liệu này.
Kiểm toán độc lập là ngành dịch vụ hỗ trợ kinh doanh được thực hiện bởi các doanh nghiệp kiểm toán và kiểm toán viên hành nghề, dựa trên sự tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp nhằm đưa ra kết luận về sự đảm bảo của dịch vụ cung cấp đáp ứng nhu cầu công khai, minh bạch thông tin tài chính của các đơn vị, tổ chức và làm thay đổi các điều kiện của đơn vị tiêu dùng, hoặc thúc đẩy quá trình trao đổi hàng hóa hoặc tài sản tài chính.
2.1.1.2 Phân loại kiểm toán độc lập
Có nhiều tiêu chí phân loại KTĐL, mỗi tiêu chí có ý nghĩa khác nhau. Trên góc độ QLNN đối với KTĐL, luận án đi sâu phân loại theo một số tiêu chí sau:
i) Theo mối quan hệ pháp lý với khách thể kiểm toán
Kiểm toán theo luật định (Kiểm toán bắt buộc)
Theo quy định của pháp luật, các đơn vị, tổ chức trước khi công bố thông tin tài chính bắt buộc phải thực hiện kiểm toán BCTC và các dịch vụ có liên quan trên cơ sở các hợp đồng dịch vụ kiểm toán. Theo thông lệ quốc tế, các quốc gia phải quy định rõ các đối tượng bắt buộc phải thực hiện kiểm toán BCTC hàng năm và các dịch vụ có liên quan trong Luật KTĐL, Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, …
Đối tượng bắt buộc kiểm toán theo luật định là những đơn vị, tổ chức có tính chất và quy mô hoạt động liên quan nhiều đến lợi ích của công chúng và tác động lớn đối với nền kinh tế (Công ty đại chúng, Tổ chức niêm yết, Tổ chức đăng ký giao dịch, Tổ chức chào bán chứng khoán ra công chúng, Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, Công ty đầu tư chứng khoán, Quỹ đầu tư chứng khoán…).
Quốc hội (Luật Kiểm toán độc lập, 2011) nêu rõ: “Doanh nghiệp, tổ chức bắt buộc phải kiểm toán khi nộp BCTC cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và khi công khai BCTC phải có báo cáo kiểm toán đính kèm; trường hợp cơ quan nhà nước khi nhận BCTC của doanh nghiệp, tổ chức bắt buộc phải kiểm toán mà không có báo cáo kiểm toán đính kèm thì có trách nhiệm thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật”.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, kiểm toán theo luật định ngày càng mở rộng đối tượng bắt buộc phải kiểm toán với những quy định chặt chẽ hơn, chế tài xử
phạt mạnh hơn bởi chất lượng thông tin tài chính của các đơn vị luôn là vấn đề quan trọng đối với phản ứng của thị trường do mức độ lan tỏa của thông tin ảnh hưởng tới nhiều đối tượng trong nền kinh tế.
Kiểm toán tự nguyện
Theo quy định của pháp luật, các đơn vị, tổ chức không nhất thiết phải thực hiện kiểm toán nhưng vẫn tự nguyện thực hiện trên cơ sở các hợp đồng dịch vụ kiểm toán.
Quốc hội (Luật Kiểm toán độc lập, 2011) nêu rõ: “Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức thuê DNKiT, chi nhánh DNKiT nước ngoài tại Việt Nam thực hiện kiểm toán BCTC, báo cáo quyết toán dự án hoàn thành và các công việc kiểm toán khác trước khi nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc trước khi công khai tài chính”.
ii) Theo loại hình dịch vụ kiểm toán cung cấp
Dịch vụ kiểm toán đảm bảo
Dịch vụ đảm bảo là các dịch vụ kiểm toán mà KTV và DNKiT cung cấp phải thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp, có giá trị đảm bảo tính độc lập, tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán và đưa ra kết luận về sự đảm bảo của dịch vụ cung cấp. Trên thị trường hiện nay, nhu cầu về dịch vụ kiểm toán đảm bảo ngày càng lớn bởi sự mong đợi về độ tin cậy của các thông tin và báo cáo do tổ chức phát hành. Dịch vụ kiểm toán đảm bảo bao gồm nhiều dịch vụ:
Dịch vụ kiểm toán BCTC, là dịch vụ do DNKiT và KTV thực hiện thông qua kiểm tra, xác nhận và đưa ra kết luận về mức độ trung thực, hợp lý của BCTC được kiểm toán với các tiêu chuẩn, chuẩn mực đã được thiết lập. Khi cung cấp dịch vụ kiểm toán BCTC, KTV phải tuân thủ chuẩn mực về kiểm soát chất lượng, các chuẩn mực về hợp đồng dịch vụ đảm bảo, thực hiện đánh giá rủi ro và các thủ tục kiểm toán để xử lý các rủi ro đã xác định. Sản phẩm của dịch vụ kiểm toán BCTC là “Báo cáo kiểm toán về BCTC” trong đó, đưa ra kết luận đảm bảo dạng khẳng định của KTV về độ tin cậy của thông tin tài chính được chứa đựng trong BCTC của đơn vị được kiểm toán.
Dịch vụ soát xét thông tin BCTC, là dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu khi các đơn vị, tổ chức được miễn kiểm toán BCTC, nhưng các bên liên quan (nhà đầu tư, cổ đông, nhà cung cấp, chủ nợ,…), yêu cầu một dạng đảm bảo đối với BCTC. Dịch vụ soát xét thông tin BCTC là dịch vụ do DNKiT và KTV hành nghề thực hiện thông qua các thủ tục soát xét, phỏng vấn và thủ tục phân tích theo các chuẩn mực về dịch vụ soát xét và chuẩn mực về hợp đồng dịch vụ đảm bảo. Sản phẩm của dịch
vụ soát xét thông tin BCTC là “Báo cáo soát xét” trong đó bày tỏ kết luận đảm bảo dạng phủ định của KTV về việc liệu có bất kỳ thông tin nào thu thập được trong quá trình soát xét cho thấy BCTC không phản ánh trung thực và hợp lý theo khuôn khổ lập và trình bày BCTC.
Các dịch vụ đảm bảo khác, là các dịch vụ đảm bảo như: dịch vụ kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành; dịch vụ soát xét và đánh giá hệ thống KSNB; …
Dịch vụ kiểm toán phi đảm bảo:
Dịch vụ kiểm toán phi đảm bảo là các dịch vụ mà KTV và DNKiT khi cung cấp không phải đưa ra kết luận về sự đảm bảo của dịch vụ cung cấp. Dịch vụ kiểm toán phi đảm bảo bao gồm các dịch vu: tư vấn định giá, tư vấn kế toán, tài chính, tư vấn quản lý, tư vấn thuế, tư vấn đầu tư, tư vấn sáp nhập, cổ phần hoá, giải thể doanh nghiệp... Việc cung cấp dịch vụ phi đảm bảo chuyên nghiệp sẽ làm gia tăng tổng giá trị của cả gói dịch vụ mà DNKiT cung cấp, song giá trị gia tăng này lại làm giảm sự cân bằng đối trọng trong mối quan hệ giữa khách hàng và DNKiT.
Theo Simunic D. (Auditing, consulting and auditor independence, 1984), cho rằng, việc cung cấp dịch vụ phi đảm bảo có thể gia tăng mối quan hệ kinh tế giữa KTV và khách hàng. Nếu mối quan hệ này càng chặt chẽ thì tính khách quan càng bị tổn hại, DNKiT có thể sẽ có lợi ích nhiều hơn để bù đắp mức độ rủi ro cao hơn so với trường hợp họ không có cơ hội cung cấp dịch vụ kiểm toán phi đảm bảo và như vậy có thể đối mặt với nguy cơ ảnh hưởng đến tính khách quan.
Tại Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và nhiều quốc gia, Nhà nước yêu cầu phải tách bạch dịch vụ kiểm toán đảm bảo và dịch vụ phi đảm bảo, hạn chế cung cấp các dịch vụ tư vấn nhằm cải thiện và tăng cường chất lượng kiểm toán, giảm xung đột lợi ích. Nhà nước yêu cầu, các DNKiT phải thực hiện minh bạch và công bố công khai báo cáo lợi nhuận của dịch vụ kiểm toán đảm báo và nghiêm cấm nhận hỗ trợ từ các dịch vụ tư vấn. Bên cạnh đó, còn quy định các DNKiT phải tách bạch khi tính lương của KTV dựa trên sự đóng góp của họ vào lợi nhuận của dịch vụ kiểm toán đảm bảo và phải chứng minh được tính độc lập và thẩm quyền trong đạo đức nghề nghiệp khi thực hiện dịch vụ kiểm toán, dịch vụ soát xét, dịch vụ đảm bảo khác và các dịch vụ tư vấn.
2.1.2 Đặc trưng cơ bản của kiểm toán độc lập
KTĐL là loại hình dịch vụ kinh doanh có điều kiện với nhiều ràng buộc tự thân và bắt buộc về chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cũng như sự quản lý của Nhà nước, hãng kiểm toán và tổ chức nghề nghiệp. Khác với các dịch vụ trong nền kinh tế khi cung cấp dịch vụ chỉ liên quan đến hai chủ thể là bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ (người trực tiếp thụ hưởng và trả phí), KTĐL khi cung cấp dịch vụ
sẽ liên quan ít nhất đến ba chủ thể là bên cung cấp dịch vụ kiểm toán, đối tượng bị kiểm toán (bên trả phí), và người sử dụng kết quả kiểm toán (bên thụ hưởng). Trong đó người trả phí dịch vụ kiểm toán lại không phải là người thụ hưởng. Quá trình cung cấp dịch vụ kiểm toán lại không quan sát được (unobservable), vì thế người sử dụng dịch vụ kiểm toán không có “trải nghiệm” như các loại hình dịch vụ khác. Kết quả kiểm toán được sử dụng bởi rất nhiều đối tượng trong nền kinh tế và không xác định được cụ thể trước khi cung cấp dịch vụ. Mức độ ảnh hưởng và sức “công phá” của kết quả kiểm toán là rất lớn nên nhiều khi không chỉ ảnh hưởng tới sự ổn định của nền kinh tế của một quốc gia mà có thể ảnh hưởng đến nhiều quốc gia.
Xuất phát từ những khác biệt của ngành kinh doanh dịch vụ có điều kiện và yêu cầu phải hài hòa lợi ích, giải quyết xung đột giữa các bên liên quan trong quá trình cung cấp dịch vụ kiểm toán nên KTĐL có các đặc trưng cơ bản sau:
2.1.2.1 Kiểm toán độc lập ra đời và gắn liền với sự phát triển của kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhu cầu công khai minh bạch thông tin tài chính của các tổ chức, đơn vị là không cần thiết bởi Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua kế hoạch. Trong môi trường quản lý đó nhận thức của xã hội về KTĐL rất hạn chế, các tổ chức và đơn vị không có nhu cầu về dịch vụ kiểm toán.
Kinh tế thị trường với môi trường cạnh tranh do vậy thông tin tài chính cung cấp luôn phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Các đơn vị luôn tìm mọi cách che giấu các thông tin bất lợi và thổi phồng những thông tin có lợi để tối ưu hóa lợi ích. Do vậy các đối tượng sử dụng thông tin luôn hoài nghi đối với những thông tin được cung cấp, họ cần có một bên thứ ba có chuyên môn, được pháp luật đảm bảo, cung cấp dịch vụ kiểm tra, xác nhận và đảm bảo về mức độ tin cậy của thông tin tài chính cung cấp. KTĐL ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin tài chính của các đối tượng trong nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường càng phát triển, các kênh cung cấp vốn chủ yếu đến từ thị trường chứng khoán và ngân hàng thì nhu cầu sử dụng thông tin tài chính của các đối tượng trong nền kinh tế càng đòi hỏi ở mức độ cao. KTĐL trở thành đặc trưng của kinh tế thị trường, với bàn tay vô hình, KTĐL sẽ được thị trường điều chỉnh thông qua chất lượng dịch vụ cung cấp.
2.1.2.2 Kiểm toán độc lập được pháp luật thừa nhận, bảo hộ và quản lý chặt chẽ bởi các hiệp hội chuyên ngành
KTĐL là dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh rong kinh tế nên tại bất cứ quốc gia nào cũng được thừa nhận, bảo hộ và quy định rõ trong hiến pháp, các đạo luật chuyên ngành. KTĐL được thừa nhận thông qua giá trị pháp lý của các dịch vụ cung cấp và địa vị pháp lý, tiêu chuẩn, quyền hạn, trách nhiệm của DNKiT và KTV.
Việc chia sẻ trách nhiệm quản lý thông qua các hiệp hội nghề nghiệp hoặc các cơ quan trung gian (ủy ban độc lập) là đặc trưng rất cơ bản của KTĐL. Tại các quốc gia KTĐL chịu sự quản lý chặt chẽ của các tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán thông qua việc hướng dẫn thực hiện và giám sát sự tuân thủ các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, chuẩn mực kiểm toán, các phương pháp chuyên môn nghiệp vụ. Các hiệp hội chuyên ngành có trách nhiệm cập nhật kiếm thức cho KTV, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ nhằm duy trì kỹ năng nghề nghiệp và chuyên môn cho KTV trong quá trình hành nghề. Bên cạnh đó, hiệp hội chuyên ngành về kiểm toán còn thực hiện giám sát chất lượng kiểm toán, xử lý vi phạm và duy trì đạo đức nghề nghiệp của KTV hành nghề.
Tại mỗi quốc gia trong hiến pháp và các đạo luật chuyên ngành luôn phân định rõ ràng trách nhiệm, sự phối hợp giữa cơ quan QLNN với tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán để quản lý và giám sát KTĐL.
2.1.2.3 Kiểm toán độc lập luôn tuân thủ nguyên tắc độc lập, khách quan và bảo mật
KTĐL không chỉ đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng trong nền kinh tế mà trong quá trình cung cấp dịch vụ kiểm toán phải đảm bảo tính độc lập, khách quan và bảo mật thông tin. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán quy định, DNKiT và KTV khi cung cấp dịch vụ phải tuyệt đối không được để cho vật chất và tình cảm lấn át tính độc lập, khách quan. KTV không được có quan hệ tình cảm với lãnh đạo cao cấp (anh chị em, bố mẹ, vợ chồng) và không được có lợi ích tài chính trực tiếp hoặc gián tiếp trọng yếu trong đơn vị được kiểm toán. DNKiT và thành viên nhóm kiểm toán khi thực hiện hợp đồng dịch vụ kiểm toán phải xác định nguy cơ đe dọa tính độc lập, đánh giá mức độ nghiêm trọng của các nguy cơ đã được xác định và áp dụng các biện pháp bảo vệ cần thiết, loại trừ hoặc làm giảm các nguy cơ đó xuống mức chấp nhận được. Khi nhận thấy không có hoặc không thể áp dụng các biện pháp bảo vệ thích hợp để loại trừ hoặc làm giảm nguy cơ đó xuống mức có thể chấp nhận được, KTV phải loại bỏ những tình huống hoặc mối quan hệ làm phát sinh các nguy cơ này hoặc từ chối hoặc chấm dứt hợp đồng cung cấp dịch vụ kiểm toán.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán quy định, DNKiT và KTV hành nghề phải luôn nhận thức rõ tầm quan trọng và phải áp dụng các thủ tục, chính sách chặt chẽ nhằm bảm đảm cam kết bảo mật đối với khách hàng. Trong trường hợp trách nhiệm pháp lý cao hơn trách nhiệm bảo mật thì DNKiT và KTV hành nghề chỉ công bố thông tin và dữ liệu của khách hàng cho bên thứ ba khi có sự ủy quyền công bố.
2.1.3 Vai trò của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế
2.1.3.1 Tạo lập niềm tin cho các đối tượng trong nền kinh tế
Lý thuyết thông tin bất cân xứng chỉ ra rằng, luôn tồn tại việc các bên tham gia giao dịch cố tình che giấu các thông tin bất lợi, thổi phồng thông tin có lợi, cung cấp thông tin không công bằng đối với các đối tượng sử dụng. KTĐL phải thực hiện vai trò tạo lập niềm tin cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính trong nền kinh tế.
Đối với cơ quan QLNN, sử dụng thông tin tài chính do KTĐL cung cấp để định hướng và điều tiết các chính sách vĩ mô đảm bảo đạt được mục tiêu QLNN.
Đối với các đơn vị được kiểm toán, với thông tin tài chính đã được kiểm toán sẽ giúp các đơn vị được kiểm toán tạo lập niềm tin cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính trong nền kinh tế. Các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán, thông qua kết quả kiểm toán BCTC sẽ cung cấp cho thị trường chứng khoán độ tin cậy của thông tin và sự an toàn cho nền kinh tế.
Các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán, thông tin tài chính đã được kiểm toán giúp các nhà đầu tư đánh giá tình hình tài chính và nhiều mặt hoạt động của đơn vị được kiểm toán như: công tác quản lý vốn, tài sản, cách thức tổ chức bộ máy quản lý, …Thông tin tài chính đã được kiểm toán tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi đầu tư, góp vốn vào đơn vị được kiểm toán. Dựa vào BCTC đã được kiểm toán, ngân hàng và các tổ chức tài chính sẽ đánh giá tình hình tài chính, kết quả hoạt động để đưa ra các quyết định cho vay vốn và đánh giá khả năng thu hồi nợ của các đơn vị được kiểm toán.
2.1.3.2 Lành mạnh hóa các quan hệ tài chính
Trong quá trình phát triển kinh tế, các quan hệ tài chính, chế độ kế toán có nhiều thay đổi. Công tác kiểm tra, kiểm soát chưa kịp thời dẫn tới tình trạng vi phạm các nguyên tắc chế độ tài chính kế toán. Thông qua KTĐL, góp phần phổ cập cơ chế chính sách kinh tế, tài chính đưa hoạt động tài chính, kế toán đi vào nề nếp.
Dịch vụ kiểm toán BCTC, dịch vụ soát xét và các dịch vụ đảm bảo khác như kiểm tra, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ các tổ chức tín dụng và các dịch vụ có liên quan, đã góp phần giúp các doanh nghiệp, tổ chức, các dự án quốc tế nắm bắt được kịp thời, đầy đủ và tuân thủ đúng các chính sách kinh tế, tài chính, loại bỏ được chi phí bất hợp lý, tạo lập được thông tin tin cậy, từng bước đưa công tác quản lý tài chính, kế toán trong các đơn vị vào nề nếp. Thông qua dịch vụ kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành, giúp các đơn vị xác định giá trị vốn đầu tư đúng đắn, góp phần loại bỏ các chi phí không hợp lý, hợp lệ, tiết kiệm chi phí đầu tư XDCB, góp phần làm lành mạnh hoá tài chính trong quản lý đầu tư XDCB.
Sự tác động có định hướng của KTĐL giúp các đơn vị và tổ chức phát triển phù hợp với những yêu cầu của Nhà nước, cho thấy vai trò của KTĐL trong việc góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế.
2.1.3.3 Nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị và năng lực quản lý nhà nước
Thông qua KTĐL, các đơn vị, tổ chức được hỗ trợ, tư vấn hoàn thiện quy chế kiểm soát nội bộ nhằm ngăn chặn, phòng ngừa các rủi ro xảy ra ảnh hưởng tới mục tiêu hoạt động. Hoạt động KTĐL giúp lành mạnh hoá tài chính, xác định đúng giá trị vốn đầu tư, loại bỏ chi phí bất hợp lý, tạo môi trường đầu tư minh bạch.
Thông qua hoạt động KTĐL, các DNKiT đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, hiểu biết và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của chính sách và pháp luật về thuế, tài chính, kế toán của quốc gia.
Các cơ quan QLNN thực hiện kiểm tra, giám sát và xử phạt sai phạm của các đơn vi nhằm công khai, minh bạch và hạn chế rủi ro cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, còn giúp đỡ cán bộ QLNN hiểu biết về các thông lệ, chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế, hỗ trợ nâng cao năng lực quản lý và điều hành. Đây chính là nhân tố quan trọng giúp rút ngắn tiến trình mở cửa, hội nhập kinh tế của các quốc gia.
2.2 Quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập
2.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước đối với kiểm toán độc lập
Thuật ngữ quản lý trong hoạt động kinh tế có nhiều định nghĩa khác nhau được đưa ra tuỳ theo quan điểm và phương pháp tiếp cận nghiên cứu. Quan điểm chung nhất hiện nay cho rằng, quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng lên một hệ thống nào đó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định. Như vậy, quản lý chính là sự tác động, chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người làm cho chúng vận động phát triển phù hợp với quy luật, đạt được mục đích và theo ý chí của người quản lý hay là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra.
Trong xã hội có nhà nước, hoạt động QLNN là hoạt động quản lý cao nhất. Đó là hoạt động gắn liền với hệ thống các cơ quan thực thi quyền lực Nhà nước - bộ phận quan trọng của quyền lực chính trị trong xã hội, có tính chất cưỡng chế đơn phương đối với xã hội. Đỗ Hoàng Toàn và Mai Văn Bưu (Giáo trình Quản lý nhà nước về kinh tế, 2005) nêu rõ: “Quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế”.