năm 1988) tới nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chính của khóa luận là tổng hợp, phân tích kết hợp với đối chiếu,so sánh các nguồn dữ liệu để đưa ra những nhận xét, đánh giá và đề xuất một số giải pháp cụ thể.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, khoá luận này được trình bày trong 3 chương:
Chương 1 : Cơ sở lý luận chung về quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2 : Thực trạng của quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới
Đề tài là một vấn đề hết sức phức tạp, đặc biệt với sinh viên như em vì lẽ trình độ hiểu biết còn hạn chế, kinh nghiệm của bản thân chưa tích luỹ được nhiều, việc thu thập và xử lý thông tin gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, nội dung bài viết còn rất nhiều vấn đề chưa được đề cập và còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến và sự chỉ bảo của thầy cô và các bạn về nội dung cũng như cách trình bày.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn, Tiến sĩ Nguyễn Thị Việt Hoa đã dành thời gian đóng góp nhiều ý kiến quý báu, bổ sung cũng như chỉnh lý nội dung và hình thức nhằm giúp em hoàn thành khoá luận này.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp - 1
- Vai Trò Của Fdi Đối Với Các Nước Tiếp Nhận Đầu Tư Là Các Nước Đang Phát Triển
- Kinh Nghiệm Quản Lý Fdi Của Một Số Nước Châu Á
- Thực Trạng Hoạt Động Fdi Tại Việt Nam Trong Thời Gian Qua
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
CHƯƠNG I:CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Trong bối cảnh xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới, hoạt động đầu tư nước ngoài (ĐTNN), đặc biệt là hoạt động FDI, đã trở thành một tất yếu khách quan trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT) của các quốc gia. Công tác quản lý Nhà nước đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài là một trong những công cụ quan trọng để tăng cường khả năng thu hút FDI, thúc đẩy tiến trình tham gia vào xu thế tự do hóa đầu tư đang diễn ra rộng khắp trên thế giới. Trong chương một, luận văn sẽ lần lượt làm rõ những vấn đề cơ bản liên quan đến nguồn vốn FDI và khái niệm quản lý Nhà nước đối với FDI.
I. Những khái niệm cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Khái niệm
Đầu tư nước ngoài được hình thành thông qua sự chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước, sự khác nhau về quyền sở hữu các yếu tố sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, vòng đời của sản phẩm, trình độ phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất… Các yếu tố này đã thúc đẩy sự trao đổi và phân công lao động quốc tế dựa trên lợi thế so sánh giữa các quốc gia, đồng thời sự khác nhau giữa nhu cầu và khả năng tích lũy vốn ở các nước đã làm tăng nhu cầu đầu tư ra nước ngoài để thâm nhập, mở rộng thị trường, tăng lợi nhuận và đạt được các mục tiêu kinh tế nhất định.
Nhìn chung, ĐTNN là một quá trình có sự di chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác theo các cam kết đầu tư được thỏa thuận nhằm đưa lại lợi ích cho các bên tham gia. Về bản chất, ĐTNN là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hóa. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI ) là một bộ phận cấu thành nên đầu tư nước ngoài. FDI đang ngày càng chứng tỏ vai trò đặc biệt quan trọng khi tỷ trọng đóng góp vào ĐTNN lớn và không ngừng gia tăng.
Hiện nay trên thế giới, khái niệm FDI được diễn giải theo nhiều cách khác nhau, tùy theo quan điểm và góc độ tiếp cận của các nhà kinh tế. Theo Tổ chức Thương mại quốc tế WTO, thì “FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác”. Trong khi quỹ tiền tệ quốc tế IMF lại đưa ra cách định nghĩa về FDI như sau: FDI là số vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư mong muốn tìm được chỗ đứng trong việc quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường. Khái niệm này nhấn mạnh vào hai yếu tố là lợi ích lâu dài của hoạt động đầu tư và động cơ đầu tư là dành quyền kiểm soát trực tiếp hoạt động quản lý doanh nghiệp.
Tổ chức OECD cũng đưa ra khái niệm như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách:
- Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư
- Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đó
- Tham gia vào một doanh nghiệp mới
- Cấp tín dụng dài hạn ( trên 5 năm)
Khái niệm của OECD về cơ bản cũng giống như khái niệm của IMF về FDI, đó là cũng thiết lập các mối quan hệ lâu dài (tương tự với việc theo đuổi lợi ích lâu dài trong khái niệm của IMF), và tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên khái niệm này chỉ cụ thể hơn cách thức để nhà đầu tư tạo ảnh hưởng đối với hoạt động quản lý doanh nghiệp.
Ở nước ta, khái niệm về FDI không được quy định cụ thể mà thông qua khái niệm về ĐTNN. Khái niệm về ĐTNN được quy định rõ tại khoản 12 điều 3 Luật
đầu tư 2005: “ĐTNN là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”.
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu một cách khái quát về FDI như sau: “ FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình.” Tài sản được đề cập đến trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, nhà xưởng, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá trị,…), tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý,…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiểu, giấy ghi nợ,…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài.
1.2. Đặc điểm
Từ khái niệm của FDI, có thế khái quát được một số đặc điểm cơ bản về FDI như sau:
Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, tự quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và đem lại hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
Mục đích của hoạt động FDI là tìm kiếm lợi nhuận. FDI là hoạt động đầu tư tư nhân, do đó mục đích ưu tiên hàng đầu của các doanh nghiệp FDI là tìm kiếm lợi nhuận. Các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển cần phải lưu ý đặc điểm này khi tiến hành thu hút FDI, phải xây dựng cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng FDI vào phục vụ cho các mục tiêu kinh tế, xã hội của mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích của chủ đầu tư.
Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp nước tiếp nhận đầu tư
để giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Tỷ lệ vốn tối thiểu được quy định khác nhau theo từng nước, luật Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%, Pháp và Anh là 20%, còn tại Việt Nam, còn tại Việt Nam, Luật Đầu tư 2005 và Nghị định 108/2006/NĐ-CP không quy định tỷ lệ tối thiểu góp vốn cổ phần mà tỷ lệ này sẽ được thực hiện theo pháp luật chuyên ngành như chứng khoán, bảo hiểm,... Các lĩnh vực còn lại nhà đầu tư được mua với tỷ lệ không hạn chế và phải phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tỷ lệ đóng góp vốn của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy định quyền và nghĩa vụ mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia dựa theo tỷ lệ này.
Thông qua FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý… là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được
Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ dự án đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
Việc tìm hiểu và nắm vững khái niệm cũng như các đặc điểm của FDI sẽ giúp chúng ta có được nền tảng căn bản để đi sâu tìm hiểu những vấn đề có liên quan.
2. Các hình thức chủ yếu của FDI
2.1. Phân loại theo hình thức thâm nhập
FDI phân theo hình thức thâm nhập thường được chia ra hai loại chính: đầu tư mới và mua lại và sáp nhập qua biên giới.1
Đầu tư mới (Greenfield investment) là hoạt động đầu tư trực tiếp vào các cơ sở sản xuất kinh doanh hoàn toàn mới ở nước ngoài.
1 Theo định nghĩa của UNCTAD http://www.unctad.org/Templates/webflyer.asp?docid=2928&intItemID=1465&lang=1
Mua lại và sáp nhập qua biên giới ( M&A – merger and acquisition): là một hình thức FDI liên quan đến việc mua lại hoặc hợp nhất với một doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động.
Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các tập đoàn xuyên quốc gia, tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài chính ở các nước phát triển. Hoạt động M&A được phân làm 3 loại
M&A theo chiều ngang: xảy ra khi hai công ty hoạt động trong cùng một lĩnh vực sản xuất kinh doanh muốn hình thành một công ty lớn hơn để tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường của cùng một loại mặt hàng mà trước đó hai công ty cùng sản xuất.
M&A theo chiều dọc: diễn ra giữa các công ty tham gia vào các giai đoạn khách nhau của quá trình sản xuất và tiếp cận thị trường, nhằm giảm chi phí giao dịch và các chi phí khác thông qua việc quốc tế hóa các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất và phân phối.
M&A theo hướng đa dạng hóa hay kết hợp: là sự sáp nhập giữa các công ty trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau và không có liên quan, nhằm giảm cơ bản rủi ro và để khai thác các hình thức kinh tế khác nhau trong các lĩnh vực tài chính, tài nguyên,…
2.2. Phân loại theo quy định của Việt Nam
Luật đầu tư 2005 có quy định rõ những hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có tư cách pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và nước sở tại.Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải phụ thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh doanh như kinh tế, chính trị, luật pháp, văn hóa xã hội của nước sở tại. Doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài có thể được thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, gọi tắt là doanh nghiệp liên doanh, là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước tới nay. Nó là công cụ để thâm nhập thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác. Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc tế, hình thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài chính, luật pháp và bản sắc văn hóa; hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên về vốn, quản lý lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra. Hoạt động của liên doanh rất rộng, bao gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai
Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành kinh doanh mà không lập pháp nhân mới. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia, quy định rõ việc thực hiện phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên.Trong quá trình kinh doanh, các bên đều có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các bên khi tham gia hình thức này không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân chia kết quả kinh doanh chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thỏa thuận khác giữa các bên. Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nước sở tại một cách riêng rẽ.
Đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT
BOT (xây dựng – vận hành – chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một số mô hình hay cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn
được dành riêng cho khu vực Nhà nước. Trong một dự án xây dựng BOT, một doanh nhân tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hàng một công trình mà thường do chính phủ thực hiện. Vào cuối giai đoạn vận hành, doanh nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho chính phủ. Ngoài hợp đồng BOT còn có hợp đồng BTO và BT.
Hợp đồng BOT là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng ( hoặc mở rộng, nâng cấp, hiện đại hóa công trình) và kinh doanh trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng chuyển giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT. Tuy nhiên hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ nhà dành cho quyền kinh doanh công trình đó hoặc công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ vốn đầu tư và có lợi nhuận thỏa đáng về công trình đã xây dựng và chuyển giao.
Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ nhà thanh toàn bằng tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương xứng với vốn đầu tưu đã bỏ ra và một tỉ lệ lợi nhuận hợp lý. Lĩnh vực hợp đồng này hẹp hơn các doanh nghiệp FDI khác, chủ yếu áp dụng cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, và được hưởng các ưu đãi đầu tư cao hơn so với các hình thức đầu tư khác.
Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ công ty con (holding company)
Đây là một trong những mô hình tổ chức quản lí được thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Mô hình công ty mẹ - con là một công ty sở hữu vốn trong một công ty khác ở mức đủ để kiểm soát hoạt động quản lý và điều hành công ty đó thông qua việc gây ảnh hưởng hoặc lựa chọn thành viên hội đồng quản trị. Công ty con được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và công ty mẹ chỉ giới hạn hoạt động của mình trong việc sở hữu vốn, quyết định chiến