Vai Trò Của Fdi Đối Với Các Nước Tiếp Nhận Đầu Tư Là Các Nước Đang Phát Triển

lược, giám sát hoạt động quản lí của các công ty con, các công ty con vẫn duy trì quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh của mình một cách độc lập.

Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài

Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn nước ngoài ở chỗ chi nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập. Trách nhiệm của công ty con thường giới hạn trong phạm vi tài sản ở nước sở tại, trong khi trách nhiệm của chi nhánh theo quy định của một số nước, không chỉ giới hạn trong phạm vi tài sản của chi nhánh, mà còn được mở rộng đến cả phần tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài.Chi nhánh được phép khấu trừ các khoản lỗ ở nước sở tại và các khoản chi phí thành lập ban đầu vào các khoản thu nhập của công ty mẹ tại nước ngoài. Ngoài ra, chi nhánh còn được khấu trừ một phần các chi phí quản lý của công ty mẹ ở nước ngoài vào phần thu nhập chịu thuế ở nước sở tại.

3. Vai trò của FDI đối với các nước tiếp nhận đầu tư là các nước đang phát triển

3.1. Tác động tích cực

Nguồn lợi mà FDI mang lại cho nước nhận đầu tư rất lớn. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn cho thị trường tài chính

Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu nguồn vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ huy động nguồn vốn từ bên ngoài, trong đó có vốn FDI.

Các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế luôn phải đối mặt với vấn đề thiếu vốn đầu tư do không có tích lũy nội bộ hoặc tích lũy nội bộ hạn chế. Bên cạnh đó, ở nhiều nước, tâm lý chung của người dân là chưa yên tâm bỏ vốn đầu tư để sản xuất kinh doanh nếu chưa có cơ chế huy động vốn thích hợp, rõ ràng. Do đó rất cần có nguồn vốn bên ngoài để bổ sung cho đầu tư phát triển. Với nhiều ưu thế hơn so với những dòng vốn ĐTNN khác, loại hình FDI cho phép các nước sở tại khai thác được một cách tối ưu nhất nguồn vốn bên ngoài, có thêm nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế. Nguồn vốn FDI được đánh giá là rất quan trọng đối với các nước đang phát triển, chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng

vốn đầu tư toàn xã hội của các nước đang và kém phát triển. Trong giai đoạn 1998 – 2003, FDI thường xuyên chiếm khoảng 10% tổng vốn đầu tư cho tài sản cố định của các nước đang và kém phát triển. Nguồn vốn FDI không chỉ góp phần tạo điều kiện cho nguồn vốn Nhà nước tập trung vào các vấn đề kinh tế xã hội ưu tiên (như đầu tư cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội,…) mà còn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả nguồn vốn trong nước. Vốn dư thừa trong dân được kích thích đưa vào sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp Nhà nước phải tăng cường đầu tư và chú ý tới hiệu quả đầu tư trong bối cảnh phải cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn FDI. Các doanh nghiệp có vốn FDI tạo ra liên kết với các công ty trong nước nhận đầu tư thông qua các mối quan hệ cung cấp dịch vụ, nguyên vật liệu, gia công. Qua đó, FDI thúc đẩy đầu tư trong nước phát triển, gắn kết các công ty trong nước với thị trường thế giới. Các tiềm năng, thế mạnh trong nước nhờ đó mà được khai thác hiệu quả hơn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài

Công nghệ là một trong những yếu tố quyết định tới sự tăng trưởng và phát triển của mọi quốc gia. Và FDI được coi là một nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Đối với các nước phát triển thì FDI góp phần bổ sung và hoàn thiện công nghệ của mình. Đối với các nước đang phát triển có trình độ công nghệ lạc hậu, thấp kém thì FDI được coi là một phương tiện hữu hiệu để nhập công nghệ có trình độ cao hơn từ bên ngoài bằng các con đường khác nhau. Có thể là thông qua việc mua bán bằng sáng chế phát minh và cải tiến công nghệ nhập khẩu trở thành công nghệ phù hợp cho mình. Con đường này giúp các nước tạo lập được nền tảng công nghệ riêng và giảm mức độ phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài. Việc chuyển giao công nghệ cũng có thể thực hiện khi chủ ĐTNN không chỉ chuyển vào dự án đầu tư vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu (còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như bí quyết kĩ thuật, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kĩ năng tiếp cận thị trường,… (còn gọi là công nghệ mềm) cũng như đào tạo nguồn nhân lực. Điều này cho phép các nước nhận đầu tư không chỉ nhập công nghệ đơn thuần mà còn nắm

Quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp - 3

vững cả kĩ năng, nguyên lý vận hành, sửa chữa, mô phỏng và phát triển nó, nhanh chóng tiếp cận công nghệ hiện đại ngay cả khi nền tảng công nghệ trong nước chưa được tạo lập đầy đủ.

FDI góp phần tạo việc làm, nâng cao trình độ và tăng năng suất lao động cho nước chủ nhà

FDI giúp các nước đang phát triển tận dụng được các lợi thế về nguồn lao động dồi dào. Ở các nước đang phát triển, khu vực có vốn FDI tạo ra số lượng lớn việc làm cho người lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo. Nhìn chung, số lượng việc làm trong khu vực có vốn FDI và tỷ trong trong tổng lao động ở các nước đang phát triển có xu hướng tăng lên. Bên cạnh đó, FDI còn góp phần vào tạo việc làm, nâng cao trình độ cho người lao động. Năng suất lao động trong các doanh nghiệp FDI thường cao hơn trong các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp phần tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là các yếu tố có ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng. Các doanh nghiệp này thường xây dựng cho mình một đội ngũ công nhân, nhân viên lành nghề, có tác phong công nghiệp, có kỷ luật cao. Đội ngũ cán bộ của nước nhận đầu tư tham gia quản lý hoặc phụ trách kỹ thuật trong các dự án FDI trưởng thành về nhiều mặt, được tham gia đào tạo, huấn luyện ở trong và ngoài nước, được tiếp thu những kinh nghiệm quản lý điều hành của nước ngoài. Đặc biệt đối với hình thức doanh nghiệp liên doanh, chủ đầu tư của nước chủ nhà cùng tham gia quản lý với các nhà đầu tư ngoài nước nên có thêm điều kiện tiếp cận và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh. FDI còn góp phần quan trọng đối với sự phát triển giáo dục của nước nhà thông qua các khoản trợ giúp tài chính hoặc mở các lớp đào tạo, dạy nghề, đưa lao động đi đào tạo tại nước ngoài. Các dự án FDI có yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động, do đó sự phát triển của FDI ở các nước chủ nhà đặt ra một yêu cầu khách quan là phải nâng cao chất lượng về trình độ chuyên môn cũng như ngoại ngữ của người lao động. Bản thân người lao động nếu muốn có cơ hội làm trong những doanh nghiệp FDI cũng phải học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân.

Tóm lại, FDI đem lại lợi ích tạo công ăn việc làm. Đây là một tác động kép: tạo thêm việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tăng tích lũy trong nước. Tuy nhiên, sự đóng góp này còn phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kĩ thuật của nước nhận đầu tư.

Hoạt động FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu ở các nước chủ nhà, giúp cân bằng cán cân thanh toán

Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhờ có đẩy mạnh xuất khẩu, những lợi thế so sánh của các yếu tố sản xuất được khai thác một cách có hiệu quả hơn. Định hướng xuất khẩu ngày càng được chú trọng đối với các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Do đó, khuyến khích FDI hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong chính sách thu hút FDI của nước nhận đầu tư. Trong những thập kỉ gần đây, đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu ngày càng gia tăng, ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong thúc đẩy xuấ khẩu của nước chủ nhà.

Nếu xét FDI trong mối quan hệ với các nguồn vốn nước ngoài khác như tín dụng quốc tế, chứng khoán quốc tế, ODA… thì FDI cho phép các nước đang phát triển tránh được gánh nặng nợ nần, ít mạo hiểm. Do đó, ảnh hưởng tích cực của nó đến cán cân thanh toán có thể xem xét và nhận thấy trong từng thời kì nhất định thông qua các thông số kiểm soát được. Dù xem xét dưới góc độ nào, các nhà kinh tế đều có một kết luận là nếu biết thu hút và sử dụng FDI một cách hợp lý thì sự gia tăng dòng FDI có thể tạo ra ảnh hưởng tích cực đối với cán cân thanh toán của các nước đang phát triển, và điều quan trọng hơn nữa, FDI có thể tạo ra hiệu ứng tích cực đối với toàn bộ hệ thống tài chính của nước nhận đầu tư.

FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH

Tác động này có được thông qua sự chuyển giao những công nghệ và lĩnh vực sản xuất đã mất sức cạnh tranh ở chính quốc, nhưng còn là mới và khá hiện đại đối với các nước tiếp nhận đầu tư. Mặc dù tỷ trọng của FDI trong tổng vốn đầu tư ở một số nước có thế không cao, nhưng nó thường chiếm tỷ trong lớn trong đầu tư tài sản cố định trong một số ngành của nền kinh tế. FDI thường được tiến hành bởi các công ty xuyên quốc gia và thường tập trung vào các ngành công nghiệp và dịch vụ, vì vậy FDI đáp ứng được nhu cầu phát triển các ngành này của các nước đang phát

triển. Với tỷ trọng vốn FDI vào các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng, nguồn vốn này đã góp phần tăng nhanh tỷ trọng về sản lượng, việc làm, xuất khẩu,… của các ngành công nghiệp dịch vụ trong nền kinh tế của các nước đang phát triển. Tỷ trọng của các ngành kinh tế truyền thống giảm dần.

FDI đóng góp vào ngân sách Nhà nước

Cùng với sự phát triển, khu vực có vốn FDI đóng góp ngày càng tăng vào ngân sách Nhà nước. Điều này được thể hiện thông qua sự đóng góp vào thuế và các khoản lệ phí như tiền thuê đất, phí cho các loại hình dịch vụ khác….

Tóm lại, FDI giữ một vai trò to lớn và khá toàn diện đối với sự phát triển KT – XH của các nước tiếp nhận đầu tư. Với những ưu điểm nổi bật đó, việc thu hút ngày càng nhiều FDI đã, đang và sẽ trở thành một trong những chiến lược phát triển kinh tế quan trọng của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, thu hút tới mức nào còn tùy thuộc vào điều kiện, nhu cầu tạo vốn để phát triển kinh tế mỗi nước và một số yếu tố khác.

3.2. Tác động tiêu cực


Mặc dù những lợi ích nêu trên không phải là nhỏ nhưng việc thu hút và sử dụng vốn FDI cũng mang lại một số tác động tiêu cực.

Chất lượng thu hút FDI còn thấp, thiếu tính bền vững là một thực tế khó bác bỏ. Biểu hiện rõ nhất của hạn chế này là phần giá trị gia tăng còn thấp. Phần lớn các doanh nghiệp FDI tập trung khai thác lợi thế lao động rẻ, nguồn tài nguyên sẵn có, thì trường tiêu thụ “dễ tính” để lắp ráp, gia công sản phẩm tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Bên cạnh đó, sự liên kết giữa khu vực FDI với các doanh nghiệp nội địa còn ít, chưa hình thành được các ngành công nghiệp phụ trợ, liên kết sản xuất theo chuỗi cung ứng hàng hóa nên giá trị gia tăng tạo ra không cao. Hơn nữa, do chủ đầu tư trực tiếp sở hữu và quản lý vốn vì các mục tiêu của mình nên họ thường xuyên đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực nhiều khi không trùng khớp với mong muốn của nước sở tại. Nếu không có những quy hoạch và cơ chế quản lý FDI hữu hiệu, sẽ dễ dẫn tới tình trạng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác

quá mức, tăng ô nhiễm môi trường, cơ cấu kinh tế méo mó hoặc chậm được cải thiện và tích tụ những nguy cơ mất ổn định chung của đời sống KT – XH quốc gia.

Nước sở tại phải đương đầu với các chủ đầu tư quốc tế giàu kinh nghiệm, sành sỏi trong kinh doanh, nên trong nhiều trường hợp dễ bị thua thiệt hoặc chịu sức ép mạnh từ họ trên các lĩnh vực chính trị, giá cả, kĩ thuật…

Nếu nước tiếp nhận đầu tư không xây dựng được một hệ thống chính sách cạnh tranh hiệu quả sẽ dễ gây ra tình trạng độc quyền. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ sử dụng sức mạnh thị trường để thao túng thị trường, cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép các doanh nghiệp trong nước.

Không ít trường hợp việc nhận FDI đi liền với sự du nhập những công nghệ lạc hậu với giá đắt đỏ, gây ra những tổn thất lớn, bên cạnh những chi phí phát sinh từ việc dỡ bỏ, thay thế hoặc khắc phục hậu quả về sau, đồng thời làm tăng ô nhiễm môi trường.

Trên đây là những tác động không mong muốn của FDI có thể có đối với nước tiếp nhận đầu tư. Tác động này với các mức độ nặng nhẹ hoặc dài ngắn còn tùy thuộc vào hiệu quả của chính sách đối ứng của nước sở tại. Điều đó đặt ra cho các nước tiếp nhận đầu tư một vấn đề: Làm thế nào để quản lý nguồn vốn FDI một cách hợp lý, đẩy mạnh những tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực của dòng vốn này.‌

II. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài

1. Khái niệm

1.1. Khái niệm về quản lý Nhà nước

Quản lý Nhà nước (QLNN) nói chung là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý, Nhà nước, vào các đối tượng quản lý để điều khiển đối tượng quản lý, nhằm đạt được mục đích đã đề ra.

Trước hết, ta cần tìm hiểu những nội dung cơ bản về QLNN đối với nền kinh tế nói chung. Nền kinh tế thị trường thường bao gồm nhiều thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư bản Nhà nước,… Mỗi chủ thể kinh tế trong nền kinh tế có những dự kiến, phán đoán và quyết định khác nhau phù hợp với những lợi ích của mình. Để các quyết định tập

trung, hướng vào mục tiêu chung, vừa có lợi cho mỗi bản thân chủ thể, vừa có lợi cho quốc kể dân sinh thì cần phải có sự điều hòa theo một định hướng chung, có hiệu quả cao nhất. Nếu trong một nền kinh tế thị trường thuần túy, cơ chế đó là giá cả. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế hỗn hợp thì vai trò của Nhà nước là đặc biệt quan trọng. Vai trò đó được nâng lên trong điều kiện chúng ta phải tập trung mọi sức lực để tăng trưởng và phát triển nhanh, đảm bảo các mục tiêu công bằng xã hội. QLNN trong nền kinh tế thị trường không những giúp đảm bảo mục đích phát triển kinh tế thị trường theo định hướng mà còn phát huy được các mặt tích cực của nền kinh tế, hạn chế các nhược điểm của nền kinh tế thị trường, tạo môi trường bình đẳng và thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển. Nhà nước cũng giải quyết tốt các quan hệ đối ngoại, tạo thuận lợi cho các hoạt động kinh tế trong nước.

Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vừa với tư cách là cơ quan quyền lực đại diện cho nhân dân, vừa với chức năng là người chủ tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Có nhiều quan điểm xung quanh vai trò và chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, nhưng trong giai đoạn hiện nay, có thể nói, Nhà nước tập trung chủ yếu vào các chức năng sau:

Một là, thể chế hóa một cách đồng bộ, nhất quán các chính sách kinh tế và cơ chế kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền.

Hai là, cải cách bộ máy Nhà nước sao cho bộ máy này có đủ khả năng và tư cách là một người trọng tài nghiêm minh, giải quyết và điều hòa các mối quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường.

Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư có trọng điểm khu vực kinh tế quốc doanh, xây dựng một số ngành mũi nhọn, cung cấp các dịch vụ công cộng cho toàn xã hội.

Với các chức năng như vậy, phương thức quản lý của Nhà nước cũng là quản lý gián tiếp thông qua công cụ Luật pháp, kế hoạch và các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng. Để tiến hành quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội, Nhà nước sử dụng các công cụ quản lý của mình với tư cách là môi trường, là vật truyền dẫn và khách thể quản lý tới các đối tượng quản lý. Môi trường tốt bao gồm không chỉ môi trường

pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh; môi trường kinh tế nhiều tiềm năng phát triển; môi trường các nguồn lực dồi dào, phong phú; môi trường hành chính thuận tiện, nhanh chóng mà còn bao gồm cả khả năng giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Hơn thế nữa, các công cụ quản lý kinh tế - xã hội chính là phương tiện mà Nhà nước dùng để tác động, điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội nhằm đạt được các ý đồ, mục tiêu mong muốn của mình.

1.2. Qu

ản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài

Với hệ thống công cụ quản lý vĩ mô, QLNN về kinh tế có cơ hội tạo dựng, xác lập môi trường tốt cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động một cách có hiệu quả nhất, bao gồm các loại hình doanh nghiệp khác nhau.

QLNN về đầu tư nước ngoài chính là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng vào quá trình đầu tư bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế - xã hội cao trong những điều kiện cụ thể xác định và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật kinh tế khách quan nói chung và quy luật vận động đặc thù của đầu tư nước ngoài nói riêng.

QLNN đối với hoạt động đầu tư nước ngoài cũng tuân theo những nguyên lý chung về QLNN về kinh tế, nhưng cũng có những nét đặc thù riêng. Nét đặc thù này xuất phát từ đặc điểm nội tại của hoạt động FDI, đồng thời cũng xuất phát từ điều kiện và yêu cầu riêng về quản lý FDI của Nhà nước.

Thứ nhất, FDI là hoạt động thị trường, hơn nữa là thị trường mang tính chất và quy luật của thị trường quốc tế. Do điều kiện cạnh tranh quốc tế các nhà đầu tư phải tính toán kỹ khả năng, điều kiện để thu lợi nhuận. Họ sẽ không hoặc sẽ đầu tư hạn chế vào những dự án mà hiệu quả kinh tế không rõ ràng và kém hấp dẫn. Do vậy, một trong những yêu cầu của QLNN là phải tạo điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài hiểu đầy đủ và rõ ràng các thông tin về đường lối, chính sách của Nhà nước về pháp luật, thị trường, đối tác và những quy định cụ thể khác đối với FDI.

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 09/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí