được đổi mới và hoàn thiện theo hướng minh bạch hóa, phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, tạo hành lang pháp lý cho các NHTM hoạt động an toàn, hiệu quả. Thể chế quản lý nhà nước đối với các NHTM được biểu hiện bằng một số tiêu chí cơ bản như: Tính đồng bộ trong nội dung thể chế, tính khả thi của thể chế, tính kịp thời của thể chế.
2.2.5.2. Tổ chức hệ thống ngân hàng
Hệ thống ngân hàng thường được ví là “linh hồn của nền kinh tế thị trường” và được Nhà nước sử dụng để điều tiết tiền tệ trong lưu thông, xác lập môi trường tài chính lành mạnh, phù hợp với yêu cầu đầu tư, phát triển kinh tế và là công cụ để thực hiện các chiến lược tài chính, tiền tệ quốc gia. Vai trò đó được thực hiện thông qua việc tổ chức bộ máy phù hợp với chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng các nước thường tổ chức thành hai cấp bao gồm: Ngân hàng trung ương và các ngân hàng trung gian (trong đó có NHTM – loại hình ngân hàng đóng vai trò chủ chốt trong hệ thống các ngân hàng trung gian). NHTW thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, cung ứng và điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền.
a. Tổ chức bộ máy ngân hàng trung ương
Tổ chức bộ máy NHTW có thể theo mô hình thuộc Chính phủ hay độc lập với Chính phủ cho phù hợp với việc thực hiện cácchức năng, trong đó cóquản lý nhà nước. Các chi nhánh của NHTW được thành lập ở địa phương không có tư cách pháp nhân, không tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ và chịu sự điều hành trực tiếp của NHTW. Hầu hết các NHTW đều tổ chức thành một hệ thống tập trung, thống nhất bao gồm: Trụ sở chính, Chi nhánh, các văn phòng đại diện (trong và ngoài nước) và các đơn vị trực thuộc.
Cơ cấu tổ chức NHTW được bố trí thành các khối để thực hiện chức năng, nhiệm vụ mang tính chất chuyên ngành cao (hoạch định chính sách, phát hành, tín dụng,...). NHTW hiện đại có bộ máy tổ chức khá phức tạp và cũng khác nhau giữa
các quốc gia. Tuy khác nhau về cơ cấu tổ chức, nhưng mọi NHTW đều phải có hai bộ phận cơ bản là Vụ phát hành tiền tệ và Vụ kinh doanh ngân hàng. Tại các Chi nhánh cũng sẽ thiết kế thành các Phòng (Ban) để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý tại địa phương.
Trong hệ thống NHTW, trừ hội sở chính đặt tại trung tâm, các tổ chức đại diện tại các địa phương (vùng, lãnh thổ) cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc chuyển tiếp yêu cầu thực hiện CSTT và quản lý của NHTW, thay mặt NHTW thực hiện một số chức năng quản lý (quản lý nhà nước và nghiệp vụ) đối với các ngân hàng trung gian, các định chế tài chính trung gian khác. Hiện nay trên thế giới, tùy theo mỗi quốc gia, các tổ chức đại diện của NHTW được gọi theo những tên khác nhau như: Ngân hàng dự trữ liên bang (Mỹ); NHTW bang (Đức); Chi nhánh, chi điếm (Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản),...
Để xem xét về tổ chức bộ máy của cơ quan quản lý nhà nước đối với NHTM, người ta thường dùng các tiêu chí chủ yếu như: Chức năng, cơ cấu tổ chức của NHTW; tính độc lập hay phụ thuộc giữa NHTW với Chính phủ; tính thích ứng của bộ máy,…
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ Chức Hệ Thống Ngân Hàng Trong Nền Kinh Tế Quốc Dân
- Quản Lý Nhà Nước Đối Với Các Ngân Hàng Thương Mại
- Vai Trò Của Nhà Nước Đối Với Các Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Quản Lý Ngân Hàng Thương Mại Của Một Số Nước Trên Thế Giới Và Bài Học Cho Việt Nam
- Về Tái Cơ Cấu Ngân Hàng Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại
- Cơ Cấu Vốn Sở Hữu Nhà Nước Tại Cácnhtm Nhà Nước
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
b. Tổ chức hệ thống ngân hàng thương mại
Đối với các NHTM, tổ chức bộ máy được thiết kế dưới hai dạng cơ bản là ngân hàng đơn nhất và ngân hàng có chi nhánh.
Ngân hàng đơn nhất là ngân hàng không có chi nhánh, tức là các dịch vụ ngân hàng chỉ do một hội sở ngân hàng cung cấp. Tuy nhiên, cũng có một số dịch vụ được cung cấp thông qua các thiết bị kỹ thuật tại nhiều địa điểm khác nhau như máy ATM, máy thanh toán thẻ tại các cửa hàng,...
Ngân hàng chi nhánh là ngân hàng có vốn tương đối lớn, cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua nhiều đơn vị ngân hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm soát chặt chẽ bởi NHTW thông qua các quy định về mức vốn sở hữu, về chuyên môn của đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của dịch vụ ngân hàng trên địa bàn,...
Trên cơ sở qui hoạch phát triển hệ thống tổ chức tín dụng phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mỗi giai đoạn, NHTW cấp phép thành lập và giám sát
hoạt động các NHTM theo qui định pháp luật. Đồng thời NHTW cũng tạo môi trường và các điều kiện hỗ trợ cần thiết để các NHTM hoạt động an toàn, hiệu quả theo định hướng.
2.2.5.3. Quản lý nguồn nhân lực
Trong các yếu tố hợp thành của hệ thống ngân hàng, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của ngành là yếu tố then chốt giữ vai trò quyết định dến sự thành công của toàn hệ thống. Thực tế cho thấy, trình độ quản lý và điều hành của cán bộ lãnh đạo, kỹ năng tác nghiệp, phong cách và thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng,… sẽ tạo nên hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với Ngành ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng tồn tại trên cơ sở kết quảquản lý rủi ro và duy trì niềm tin từ công chúng, do đó chất lượng đội ngũ công chức, nhất là công chức đảm nhận vai trò hoạch định chính sách, điều hành thực hiện thể chế và kiểm soát các hoạt động ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng. Đối với ngành “công nghiệp tài chính” trong bối cảnh hiện nay rất cần được chú ý đến việc phân tích, đánh giá, dự báo và cảm nhận về rủi ro cũng như cơ hội đi kèm với việc luân chuyển các dòng vốn. Hiệu quả thị trường chỉ tồn tại trên lý thuyết, nên việc xử lý thông tin phải đi qua "lăng kính" của con người, vì thế đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và ý thức làm việc là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý nhân sự.
Dưới giác độ kinh tế, nguồn nhân lực quyết định năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng. Việc thiếu hụt đội ngũ cán bộ có chất lượng và giàu kinh nghiệm sẽ làm suy giảm năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng, đồng thời khiến ngân hàng đối mặt với nhiều rủi ro khi không có đủ nhân lực giỏi để phân tích tình hình tài chính, kịp thời đưa ra cảnh báo sớm về những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động ngân hàng, cũng như có quyết sách hiệu quả nhằm duy trì hoạt động và sự phát triển của hệ thống trong mọi hoàn cảnh.
Ở những nước phát triển với hệ thống ngân hàng hiện đại có bề dày kinh nghiệm trong xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp trong quản lý các ngân hàng. Nhiều nước đã đưa ra quy định bắt buộc đối với mỗi công chức trong 01 năm phải có tối thiểu từ 10 đến 15 ngày học để cập nhật nâng cao kiến thức, kỹ năng
chuyên ngành. Những đối tượng được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng bao gồm: Kỹ năng quản lý và lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt của NHTW và chi nhánh ở địa phương; các thành viên Ban giám đốc NHTM và đội ngũ lãnh đạo cấp phòng, người hoạt động trong lĩnh vực phân tích, tổng hợp, thống kê, dự báo về hoạt động ngân hàng. Đồng thời cũng chú trọng củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát ngân hàng về cả phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn và khả năng tiếp cận với công nghệ mới trong lĩnh vực ngân hàng.
Tiêu chí sử dụng để phản ánh nội dung xây dựng và phát triển đội ngũ công chức ngành ngân hàng bao gồm:
- Số lượng công chức theo chức danh và vị trí việc làm của NHTW;
- Cơ cấu công chức;
- Chất lượng công chức:
+ Trình độ đào tạo
+ Theo kinh nghiệm công tác
+ Theo yêu cầu về phẩm chất
+ Theo kết quả phân loại
- Quy hoạch công chức lãnh đạo, quản lý ngành ngân hàng
- Đào tạo, bồi dưỡng công chức ngành ngân hàng.
2.2.5.4. Thanh tra, giám sát hoạt động các ngân hàng thương mại
Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW không chỉ cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuần túy cho các ngân hàng trung gian, mà còn thực hiện vai trò điều tiết, giám sát thường xuyên hoạt động của các ngân hàng trung gian nhằm đảm bảo sự ổn định trong hoạt động ngân hàng và bảo vệ lợi ích của người gửi tiền tại các ngân hàng. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính – ngân hàng toàn cầu vừa qua cho thấy hệ thống tài chính – ngân hàng cần phải được giám sát chặt chẽ và điều tiết một cách cẩn trọng. Vì thế thanh tra, giám sát ngân hàng ở bất kỳ một quốc gia nào cũngđược coi là chức năng quan trọng trong quản lý nhà nước đối với các NHTM. Tầm quan trọng của chức năng này xuất phát từ lý do cơ bản sau:
- Hoạt động thanh tra, giám sát giúp đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng vì không giống với tổ chức kinh doanh thông thường, các ngân hàng đảm nhiệm vai trò đặc biệt trên thị trường tài chính là kênh chuyển giao vốn từ tiết kiệm đến đầu tư, là công cụ của Chính phủ trong việc tài trợ vốn cho các mục tiêu chiến lược; hoạt động của các trung gian tài chính, đặc biệt là các ngân hàng, có ảnh hưởng quyết định đến việc điều hành chính sách tiền tệ. Hoạt động của các ngân hàng liên quan đến mọi chủ thể kinh tế trong xã hội, nên sự đổ vỡ của một ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến hệ thống, mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền. Do tính chất hoạt động của ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro, nên mức độ rủi ro sẽ tăng lên khi các ngân hàng có xu hướng chạy theo lợi nhuận trước mắt làm phương hại đền quyền và lợi ích của người gửi tiền. Vì thế, sự điều tiết chặt chẽ và giám sát thường xuyên của NHTW sẽ hạn chế xu hướng chạy theo lợi nhuận quá mức, đẩy các ngân hàng vào tình trạng rủi ro và phá sản.
- Hoạt động thanh tra, giám sát góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của khách hàng. Thứ nhất, để bảo vệ lợi ích của khách hàng với tư cách là người đi vay, thanh tra xem xét việc thực hiện những quy định, chuẩn mực về phạm vi và mức độ chi tiết của các thông tin khách hàng cần báo cáo cho ngân hàng khi vay vốn; xem xét chuẩn mực hóa các qui trình, thủ tục vay vốn và tiếp nhận các dịch vụ ngân hàng; xem xét và thực hiện quy định cụ thể về xử lý hay giải quyết các tranh chấp giữa ngân hàng với khách hàng. Thứ hai, để khuyến khích cạnh tranh và đảm bảo hiệu quả hoạt động, thanh tra xem xét tính phù hợp của qui định về chất lượng và sự cập nhật của những thông tin mà ngân hàng có nghĩa vụ cung cấp cho người tham gia thị trường. Từ đó, công chúng với tư cách là người đầu tư và người sử dụng các dịch vụ tài chính có khả năng và cơ hội lựa chọn những ngân hàng tin cậy và các dịch vụ tài chính có chất lượng.
Việc tổ chức bộ máy thanh tra ngân hàng để thực hiện chức năng thanh tra, giám sát các TCTD giữa các quốc gia có thể khác nhau, nhưng phương pháp và nội dung thanh tra cơ bản là giống nhau và đều nhằm mục đích đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống ngân hàng, bảo vệ lợi ích chính đáng của người gửi tiền. Tùy theo điều kiện
chính trị, pháp lý của từng quốc gia mà cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng có thể được tổ chức trực thuộc Chính phủ hay Quốc hội; trực thuộc NHTW hay Bộ tài chính, hoặc trực thuộc NHTW nhưng phải chịu sự giám sát và chỉ đạo của các cơ quan khác như Chính phủ, Cơ quan thanh tra của Chính phủ hoặc Bộ tài chính.
Trong nội dung nghiên cứu của đề tài, nghiên cứu sinh giới hạn việc xem xét thanh tra, giám sát ngân hàng của NHTW. Với chức năng của NHTW, thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng là chức năng tối quan trọng nhằm quản lý rủi ro trong hệ thống thông qua việc cấp phép thành lập, yêu cầu sáp nhập, giải thể ngân hàng, ban hành các quy định quản trị rủi ro và đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, các quy định về công bố thông tin,...
Để thực hiện các mục tiêu quản lý theo chức năng, nhiệm vụ được giao, NHTW sử dụng một hệ thống chỉ tiêu điều tiết được phân bổ theo các tiêu thức sau: Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn, chỉ tiêu phản ánh tính đầy đủ của vốn, chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán, chỉ tiêu phản ánh chất lượng tài sản có, các chỉ tiêu khác như giới hạn cho vay và bảo lãnh, các phương pháp tự bảo hiểm, các chỉ tiêu liên quan đến việc thực hiện CSTT, phân bổ vốn tín dụng cho các mục tiêu ưu tiên, quy định về cấp giấy phép, bao gồm các quy định về thắt chặt hay nới lỏng việc cấp giấy phép tham gia vào ngành công nghiệp ngân hàng, quy định về các chuẩn mực, các hướng dẫn hoặc quy định về tính đầy đủ và chính xác của thông tin được công bố. Căn cứ vào hệ thống chỉ tiêu trên, bản thân các ngân hàng trung gian phải tự giác điều chỉnh hoạt động một cách thường xuyên theo các chỉ tiêu điều tiết. Mức kiểm soát cao hơn được thực hiện bởi NHTW thông qua hình thức thanh tra tại chỗ hay giám sát từ xa.
Trên thế giới hiện nay, Ủy ban BASEL cùng với 10 cơ quan thanh tra khác đã phát hành bộ các nguyên tắc cơ bản, toàn diện về thanh tra ngân hàng có hiệu quả (gọi là nguyên tắc BASEL). Nguyên tắc BASEL đã được cơ quan thanh tra ở 140 quốc gia nhất trí tán thành và được coi là nguyên tắc chuẩn mực quốc tế làm căn cứ cho hoạt động thanh tra ngân hàng có hiệu quả.
2.2.5.5. Điều chỉnh cơ cấu các ngân hàng thương mại
Trong quá trình vận động phát triển, hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế có thể phát sinh những bất hợp lý về quy mô và mức độ không đồng đều về trình độ làm ảnh hưởng đến sự an toàn, lành mạnh của hệ thống NHTM. Hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng nhiều rủi ro và một khi những rủi ro đó tích tụ ở mức quá ngưỡng do tác động của các yếu tố bên ngoài như: bất ổn kinh tế vĩ mô, khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán, bất động sản lao dốc hay do các yếu tố bên trong như quản trị rủi ro yếu kém, quy trình tín dụng không hoàn chỉnh, đầu tư mạo hiểm, trình độ năng lực, đạo đức của đội ngũ không đáp ứng yêu cầu,… thì ngân hàng sẽ không thể tránh khỏi đổ vỡ nếu không được cơ cấu lại. Bài học thực tế từ các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính quốc tế cho thấy, sự đổ vỡ của một tổ chức tài chính, tín dụng có thể kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống. Vì lý do đó, Chính phủ các nước phải tiến hành cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nói riêng, hệ thống tài chính nói chung nhằm ngăn chặn rủi ro cho hệ thống. Mặt khác, sau mỗi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu thì việc làm đầu tiên của các quốc gia là phải tiến hành tái cấu trúc lại nền kinh tế, trong đó trước tiên là hệ thống ngân hàng.
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng với mục đích lớn nhất là nâng cao hiệu quả hoạt động và an toàn của hệ thống ngân hàng, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng được yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế. Trong quá trình tái cấu trúc, vai trò các cơ quan Nhà nước, trong đó có NHTW sẽ là rất quan trọng trong việc đưa ra những quy định về nội dung, hình thức và phương pháp tái cấu trúc. Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng có thể bắt đầu từ việc tiến hành tổ chức lại NHTW nhằm tăng cường khả năng giám sát và tính độc lập tự chủ trong quản lý và điều hành CSTT. Tiếp đến là củng cố và tăng cường hệ thống giám sát tài chính bằng cách thiết lập các cơ quan chuyên trách về giám sát ngân hàng, trong đó tập trung vào công tác quản trị rủi ro của các ngân hàng. Áp dụng các quy tắc, quy định, định mức và tỷ lệ an toàn theo chuẩn mực của BIS; qui định về tỷ lệ an toàn vốn, về phân loại khoản vay; áp dụng những chuẩn mực kế toán, kiểm toán độc lập và những thông lệ quản trị công ty hiện đại, đẩy mạnh xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, áp dụng các tiêu chuẩn của Basel trong thanh tra, giám sát ngân hàng, nhằm nâng cao tính minh bạch, khôi
phục, duy trì niềm tin của khách hàng, nhận diện những ngân hàng có vấn đề để kịp thời có biện pháp hỗ trợ, xử lý.
Trong tái cơ cấu ngân hàng, NHTW luôn giữ vai trò quan trọng đối với việc đảm bảo an toàn của cả hệ thống. Trong trường hợp một ngân hàng mất khả năng thanh toán, NHTW có thể cung cấp những khoản tín dụng cần thiết giúp ngân hàng này tránh khỏi sự phá sản. Tuy nhiên, không phải mọi ngân hàng đều nhận được sự hỗ trợ của NHTW để thoát khỏi nguy cơ phá sản. Chỉ khi sự sụp đổ của ngân hàng đó có ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại và an ninh của cả hệ thống ngân hàng thì NHTW mới can thiệp. Mức lãi suất cho vay của NHTW khi đó cũng thường là lãi suất phạt và ngân hàng nhận hỗ trợ phải chịu nhiều quy định quản chế ngặt nghèo của NHTW. Trong một số trường hợp đặc biệt, khi một NHTM đứng bên bờ vực phá sản hoặc mất khả năng thanh toán, thì NHTW có thể mua lại ngân hàng này để đảm bảo an toàn cho hệ thống, quyền lợi của người gửi tiền và tránh những tác động tiêu cực tới nền kinh tế.
Như vậy, với vai trò là “đầu kéo” của quá trình tái cấu trúc hệ thống, NHTW tổ chức quá trình tái cấu trúc NHTM bằng những công việc cụ thể sau:
- Rà soát, đánh giá tình hình hoạt động của toàn hệ thống NHTM. Thông qua đó đánh giá khách quan, toàn diện hoạt động các NHTM, NHTW nhận diện những mặt yếu kém của hệ thống trên các mặt cấu trúc tài chính, cấu trúc hoạt động kinh doanh, cấu trúc về quản trị và cấu trúc sở hữu. Trên cơ sở đó, NHTW tiến hành phân loại các NHTM thành nhóm lành mạnh, trung bình, yếu kém làm cơ sở thiết lập phương án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng;
- Lập phương án tái cấu trúc hệ thống NHTM với các nội dung: quan điểm tái cấu trúc, định hướng tái cấu trúc và các biện pháp thực hiện theo lộ trình;
- NHTW thực hiện điều phối, hỗ trợ thực hiện tái cấu trúc hệ thống NHTM. Cùng với việc giám sát quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM, NHTW hướng dẫn và hỗ trợ các ngân hàng thực hiện chương trình tái cấu trúc. Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện tái cấu trúc theo từng giai đoạn, NHTW đưa ra quyết định điều chỉnh biện pháp hay những nội dung bất cập trong quá trình tái cấu trúc. Công việc cụ thể của