Vai Trò Của Nhà Nước Đối Với Các Ngân Hàng Thương Mại

với những nguy cơ từ hội nhập mang lại. Sự phát triển nền kinh tế toàn cầu, hội nhập về kinh tế - tài chính với các định chế tài chính lớn có tầm ảnh hưởng sâu rộng, cũng như việc các quốc gia khi kí kết gia nhập các tổ chức tài chính, các hiệp định thương mại đa phương hay song phương sẽ tác động rất lớn tới định hướng chính trị, pháp lý của mỗi nước.

- Xuất phát từ vai trò quan trọng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế Trong sự vận hành và phát triển của nền kinh tế, hệ thống NHTM có vai trò

đặc biệt quan trọng. Hệ thống NHTM phát triển ổn định là cơ sở để một nền kinh tế phát triển bền vững. Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã cho thấy hoạt động của hệ thống NHTM tác động rất mạnh mẽ đến nền kinh tế. Khi các NHTM hoạt động thiếu hiệu quả, không bảo đảm an toàn vốn sẽ kéo theo những hệ lụy lâu dài cho nền kinh tế.

- Xuất phát từ đặc điểm hoạt động kinh doanh

Hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc, mang tính chất dây chuyền đối với nền kinh tế. Bởi vì trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM phải tiến hành huy động vốn của người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và trên nguyên tắc NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời gian nhất định, nên đã tạo ra khả năng rủi ro cao cho hoạt động ngân hàng, kéo theo đó là sự rủi ro đối với người gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động ngân hàng các quốc gia trên thế giới thường được điều chỉnh và kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng những đạo luật riêng biệt, nhằm đảm bảo cho hoạt động này được vận hành an toàn và hiệu quả.

- Xuất phát từ vai trò quản lý vĩ mô về tài chính - ngân hàng của Nhà nước Nhà nước quản lý tài chính - ngân hàng như là đối tượng và sử dụng hệ thống

tài chính – tiền tệ làm công cụ quan trọng trong quản lý vĩ mô nền kinh tế.Hệ thống ngân hàng là huyết mạnh của nền kinh tế. Sự phát triển hay trì trệ, yếu kém của hệ thống ngân hàng tỉ lệ thuận với sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Hiệu quả quản

lý nhà nước liên quan đến kết quả hoạt động của hệ thống NHTM cũng như đảm bảo sự phát triển ổn định và lành mạnh của thị trường tiền tệ.

2.2.3.2. Vai trò của Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại

- Vai trò định hướng, dẫn dắt: Cũng giống như mọi lĩnh vực kinh tế- xã hội trong nền KTTT, hoạt động ngân hàng không thể thiếu được sự định hướng của nhà nước để tránh được những rủi ro trước các biến cố của thị trường. Ngày nay, không một quốc gia nào xây dựng nền KTTT mà không cần đến sự quản lý, điều tiết của nhà nước, bất luận đó là nhà nước tư bản haynhà nước theo định hướng XHCN.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

Quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng mang tính vĩ mô thông qua việc tạo điều kiện cho sự ra đời các ngân hàng trong nền KTTT như là vai trò của “bà đỡ”, thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng về kinh tế; tạo môi trường pháp lý phù hợp; xác định mục tiêu về ổn định tiền tệ và điều chỉnh mối quan hệ giữa ngân hàng với các cá nhân, tổ chức và giữa nhà nước với các TCTD trong nền kinh tế. Cũng có thể nhà nước xây dựng hệ thống ngân hàng nòng cột bằng nguồn ngân sách để đảm nhận vai trò dẫn dắt các ngân hàng thuộc khu vực tư nhân hoạt động theo định hướng; tạo lập kết cấu hạ tầng, thông tin, công nghệ,...

- Vai trò khuyến khích, hỗ trợ: Để các NHTM hoạt động theo định hướng, nhà nước sẽ tạo động lực, khuyến khích phát triển các tổ chức này thông qua hệ thống chính sách tiền tệ và tiềm lực kinh tế nhà nước, làm đòn bẩy thúc đẩyhoạt động ngân hàng ngày càng phát triển.

Quản lý nhà nước đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - 7

- Nhà nước tạo môi trường thuận lợi: Quản lý các hoạt động trong nền kinh tế thị trường là hết sức phức tạp, mỗi tác động của chủ thể quản lý đều ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế giữa các chủ thể, nhất là trong lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng. Môi trường cho các NHTM hoạt động bao gồm cả chính trị, pháp lý, kinh tế- xã hội,... trong đó môi trường pháp lý là quan trọng nhất. Sự thay đổi luật pháp luôn ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh, dịch vụ cho các pháp nhân kinh tế, nhất là đối với hệ thống NHTM. Vai trò của nhà nước ở đây là tạo lập được môi trường pháp lý phù hợp và thuận lợi, ổn định để các chủ thể kinh tế nói chung và các NHTM nói riêng có thể phát triển trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng.

- Vai trò điều tiết, ngăn ngừa: Nền kinh tế thị trường hoạt động theo các quy luật vốn có của nó. Trong số đó, có những quy luật tác động làm gia tăng động lực của các chủ thể, nhưng cũng có quy luật làm hạn chế mặt tích cực dẫn đến sự thất bại của thị trường. Trước thực tế này, các quan hệ kinh tế rất cần có bàn tay nhà nước để điều tiết hoạt động, tạo lập các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế. Đối với hoạt động các NHTM, gắn với sự lưu thông huyết mạch của nền kinh tế càng phải cần có sự điều tiết thường xuyên của Nhà nước. Trong điều kiện hiện nay, thị trường mở là công cụ quan trọng của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, bởi những ưu thế vốn có của nó giúp NHTW có thể kiểm soát được lượng tiền lưu thông trên thị trường tự do, linh hoạt điều chỉnh lượng tiền cung ứng, thay đổi các tình huống bất lợi trong lưu thông tiền tệ và tiết kiệm chi phí và thời gian cho các hoạt động điều tiết tiền tệ. Vai trò điều tiết, ngăn ngừa của NHTW còn được thực hiện thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động ngân hàng.

2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước đối với ngân hàng thương mại

2.2.4.1. Yếu tố tác động bên ngoài

a. Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình

Yếu tố tài chính và tiết kiệm của dân cư tác động rất lớn tới tình hình tài chính của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng chủ yếu được hình thành từ việc huy động các nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong dân cư. Yếu tố này lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như thu nhập của dân cư, thói quen chi tiêu bằng tiền mặt và đặc biệt là sự ổn định của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế mất ổn định, giá trị đồng tiền luôn biến động thì xu hướng chung của dân cư sẽ đổi các đồng tiền bản tệ ra các đồng tiền mạnh hay cất trữ vàng bạc, mua bất động sản,... là những tài sản có tính ổn định cao hơn.

Yếu tố thuộc về bản thân các doanh nghiệp, trong đó tình hình tài chính của doanh nghiệp có ảnh hưởng mạnh đến tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng. Khách hàng có nguồn vốn lớn, khả năng tài chính tốt là điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư mua sắm thiết bị, sản xuất có hiệu quả, mang lại lợi nhuận và thanh toán các khoản vay từ ngân hàng. Tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng ảnh

hưởng tới việc đáp ứng các điều kiện để thực hiện các nguyên tắc và quy định cho vay, thế chấp ngân hàng. Khả năng tài chính doanh nghiệp hạn chế là nguyên nhân dẫn đến khả năng tiếp cận vốn ngân hàng khó khăn khi không đủ tài sản đảm bảo, báo cáo tài chính kém lành mạnh, hoạt động kém vững chắc, nguồn trả nợ không ổn định,...

b. Môi trường kinh tế

Tình trạng phát triển của nền kinh tế hay tính chu kỳ của nền kinh tế là một yếu tố vĩ mô có tác động trực tiếp đến hoạt động của NHTM. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định, thu nhập của người dân được đảm bảo và ngày càng cải thiện thì khả năng tích lũy của dân cư cao hơn từ đó lượng tiền gửi vào ngân hàng tăng lên. Đồng thời, ở giai đoạn này các cơ hội đầu tư được trông đợi là sinh lợi tăng, làm tăng nhu cầu vay vốn để đầu tư cho các dự án. Mặt khác, nền kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp sẽ làm tăng nhu cầu tiêu dùng, tạo triển vọng cho vay tiêu dùng. Ngược lại, khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái sẽ làm cho niềm tin của khách hàng vào đồng nội tệ giảm xuống. Cụ thể hơn nữa là khi thu nhập thực tế của người lao động giảm thì lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế cũng sẽ giảm theo và lượng tiền gửi vào ngân hàng còn có nguy cơ bị rút ra. Về phía doanh nghiệp, sự giảm sút các cơ hội đầu tư có khả năng sinh lợi trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế làm nhu cầu vay vốn giảm và do đó sẽ ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

c. Tình trạng Ngân sách nhà nước

Theo đó, mức bội chi ngân sách tăng làm gia tăng nhu cầu vay vốn từ công chúng để tài trợ thiếu hụt. Hành vi phát hành công cụ nợ để huy động vốn tài trợ nhu cầu thâm hụt ngân sách địa phương của chính quyền địa phương hoặc huy động vốn của các cơ quan Chính phủ khác cũng có thể tác động làm giảm lượng tiền gửi của hệ thống ngân hàng cũng như khối lượng tín dụng ngân hàng có thể cung ứng cho nền kinh tế.

d. Môi trường cạnh tranh

Hoạt động ngân hàng là một trong những lĩnh vực nhạy cảm, có mức độ cạnh tranh cao và phức tạp. Trong thời gian qua, thị trường tài chính ngày càng trở nên sôi

động hơn do có sự tham gia của nhiều loại hình hoạt động ngân hàng. Số lượng ngân hàng được phép hoạt động ngày càng tăng cùng với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của nhiều tổ chức phi ngân hàng, trong khi đó, nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư và các tổ chức kinh tế có hạn. Thực tế này đã làm hạn chế tính độc quyền của hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

đ. Sự phát triển ổn định của hệ thống tài chính thế giới

Hệ thống tài chính toàn cầu là khuôn khổ mang tính quốc tế vềcác hiệp định pháp lý, thể chế và tác nhân kinh tế chính thức và không chính thức cùng tạo điều kiện lưu thông dòng chảy tài chính quốc tế cho các mục đích đầu tư và tài chính thương mại. Hệ thống này đã phát triển đáng kể từ cuối thế kỷ 19 cho đến những làn sóng đầu tiên của toàn cầu hóa kinh tế, được đánh dấu bằng việc thành lập các NHTW, các hiệp ước đa phương và các tổ chức liên chính phủ để cải thiện tính minh bạch và hiệu quả của thị trườngtài chính quốc tế. Tuy nhiên, do những biến động về thâm hụt thương mại, sụt giảm đầu tư và tiêu dùng làm cho thị trường tài chính không ổn định (thị trường chứng khoán sụt giảm, thị trường vốn khó khăn, thị trường tiền tệ không an toàn). Kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nhiệm vụ đảm bảo sự ổn định hệ thống tài chính thế giới ngày càng trở nên quan trọng đối với tất cả các quốc gia.

2.2.4.2.Yếu tố tác động bên trong

a. Nguồn nhân lực

Con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong mọi hoạt động kinh doanh của tổ chức. Đối với hoạt động ngân hàng, một trong những ngành nghề có mức độ rủi ro cao, thì yếu tố con người lại càng đóng vai trò quan trọng. Do đó, để đạt được hiệu quả trong kinh doanh, ngành ngân hàng cần phải có đội ngũ nhân sự trình độ cao, được đào tạo hệ thống và có kiến thức sâu rộng về thị trường. Đặc biệt là kiến thức trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn và hiểu biết những nội dung pháp luật có liên quan đến hoạt động ngân hàng. Trong bố trí sử dụng, nhân sự cần phải được sàng lọc kỹ càng và phải thường xuyên bồi dưỡng những kiến thức cần thiết để bắt kịp với nhịp độ phát triển chung và những biến đổi của nền KTTT. Ngoài ra, họ

còn phải đảm bảo về tiêu chuẩn về đạo đức, sự liêm khiết, bởi lẽ nếu người cán bộ ngân hàng thiếu trách nhiệm, vô tình hay hữu ý vi phạm có thể sẽ gây tổn thất rất lớn cho ngân hàng.

b. Sự phát triển của hệ thống tài chính, đặc biệt là các định chế tài chính đối với ngân hàng giữ vai trò chủ đạo. Sự lớn mạnh và phát triển của các NHTM nhà nước, đang thực hiện vai trò chi phối trong hệ thống ngân hàng, cùng với sự phát triển và ngày càng mở rộng về quy mô vốn của các NHTM, ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty tài chính, chứng khoán, bảo hiểm,... làm cho thị trường tài chính ngày càng trở nên sôi động.

c. Tính độc lập của Ngân hàng trung ương trong quản lý, điều hành

Ngoài chức năng là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW còn thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động tiền tệ - ngân hàng, do vậy sự độc lập, chủ động của NHTW trong hoạch định và thực thi các CSTT, trong quản lý vĩ mô các hoạt động ngân hàng sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển ổn định của hệ thống NHTM.

CSTT có tác động rất lớn tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng. Các bằng chứng thực nghiệm cũng như nhữngnguyên lý lý thuyết đã chỉ ra rằng, trong nền KTTT, để NHTW điều hành CSTT một cách hiệu quả, tính độc lập của NHTW là yếu tố then chốt. Khi NHTW có được vị thế độc lập thì sẽ chủ động hơn trong điều hành CSTT, trong sử dụng các công cụ để đạt được mục tiêu CSTT.

2.2.5. Nội dung quản lý nhà nước đối với các ngân hàng thương mại

2.2.5.1. Xây dựng và thực hiện thể chế, chính sách về tiền tệ - ngân hàng

Hệ thống ngân hàng nói chung và NHTM nói riêng giữ vai trò đặc biệt quan trọng và chi phối mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Việc tham gia của các NHTM vào quan hệ tài chính – ngân hàng thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, thể hiện bản chất của nhà nước và phục vụ nhà nước. Với lý do đó, Nhà nước phải trực tiếp can thiệp, chi phối các quan hệ tài chính – ngân hàng nhằm làm cho các quan hệ này một mặt tuân theo quy luật của KTTT, mặt khác phải phù hợp với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước trong từng thời kỳ. Yêu cầu này mang tính khách quan xuất

phát từ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Do vậy nhiệm vụ đầu tiên quan trọng nhất trong quản lý nhà nước đối với các NHTM là ban hành thể chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng.

Hệ thống pháp lý về tổ chức và hoạt động ngân hàng chỉ Nhà nước mới có thẩm quyền ban hành và sử dụng trong quản lý vĩ mô. Qua đó, Nhà nước vừa bắt buộc, vừa tạo môi trường cho các hoạt động ngân hàng phát triển. Từ đó, có thể thấy trong bất kỳ xã hội nào, đặc biệt là trong xã hội dân chủ tiến bộ, yêu cầu đầu tiên đối với quản lý nhà nước là phải ban hành được hệ thống thể chế, chính sách phù hợp làm căn cứ pháp lý cho hoạt động của các chủ thể và đối tượng quản lý. Đối với quản lý nhà nước, hệ thống thể chế, chính sách sẽ trở thành công cụ quan trọng để Nhà nước điều hành hoạt động trong từng lĩnh vực cụ thể, định hướng cho các quá trình kinh tế - xã hội phát triển theo mục tiêu quản lý của Nhà nước.

Nhà nước là một thiết chế mang tính quyền lực công định ra các qui tắc ứng xử trong lĩnh vực tiền tệ, trong hoạt động tín dụng, ngân hàng,... Các qui định pháp luật này không chỉ mang tính bắt buộc thực hiện đối với các tổ chức, cá nhân, mà còn có vai trò định hướng, tạo môi trường thuận lợi để các tổ chức hoạt động sao cho hiệu quả. Hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của NHTM sẽ tạo lập môi trường cho sự phát triển thông qua việc đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các ngân hàng hay bằng cách tạo cơ hội cho mỗi ngân hàngtham gia cạnh trạnh lành mạnhtheo định chế và thông lệ quốc tế. Hệ thống luật pháp trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm các quy định chung được hiến định trong Hiến pháp về hoạt động tiền tệ - ngân hàng; thiết chế về Ngân hàng trung ương; Luật định về các ngân hàng trung gian; Luật định về thanh tra, giám sát trong lĩnh vực ngân hàng; Luật định về các lĩnh vực liên quan đến tài chính - ngân hàng như: chứng khoán, bảo hiểm,...

Trên cơ sở hệ thống pháp luật chung, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền sẽ lập quy cụ thể cho từng lĩnh vực hoạt động của ngân hàng. Trên cơ sở qui định mang tính pháp luật, cơ quan nhà nước tiến hành các hoạt động cụ thể để quản lý hệ thống ngân hàng như: Xem xét, cấp và thu hồi giấy phép hoạt động đối với các ngân hàng; kiểm soát tín dụng thông qua cơ chế tái cấp vốn và tỷ lệ dự trữ bắt buộc; quy

định về nghiệp vụ và hệ số an toàn trong quá trình hoạt động của các ngân hàng; thanh tra, giám sát hoạt động của cả hệ thống ngân hàng. Áp dụng các chế tài trong các trường hợp vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm cho cả hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và có hiệu quả; quyết định đình chỉ hoạt động hoặc giải thể đối với các ngân hàng và trong các trường hợp vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc bị mất khả năng thanh toán. Quy định, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc- công cụ của NHTW trong việc thực thi CSTT, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc này sẽ thay đổi theo yêu cầu của CSTT trong từng thời kỳ; ban hành các hình thức thanh toán, các chế độ, quy định kế toán thanh toán cho toàn bộ hệ thống ngân hàng áp dụng; tái cấp vốn cho các ngân hàng trung gian dưới các hình thức: cho vay thế chấp hay ứng trước; chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá,... ấn định các lãi suất, lệ phí hoa hồng áp dụng cho các ngân hàng trung gian, quy định những thể lệ điều hành các nghiệp vụ ngân hàng; mở tài khoản giao dịch và tổ chức thanh toán bù trừ cho các ngân hàng trung gian.

Như vậy có thể thấy, để đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu quả, một trong những điều kiện thiết yếu là phải có hệ thống thể chế hoàn chỉnh. Hệ thống này bao gồm các văn bản luật quy định về tổ chức, hoạt động của NHTW, các NHTM; các văn bản luật có liên quan trên các lĩnh vực như chứng khoán, bảo hiểm, phòng chống rửa tiền,... Căn cứ vào các thể chế, các quy định trong lĩnh vực ngân hàng, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ thiết lập tổ chức bộ máy quản lý, huy động và sử dụng nguồn nhân lực, nguồn tài chính công; tái cơ cấu hệ thống ngân hàng; thực hiện các hoạt động thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng.

Có thể nói, hệ thống thể chế, chính sách có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các NHTM. Đây là cơ sở pháp lý để NHTM tổ chức hoạt động. Nếu những quy định của pháp luật không rõ ràng, không đồng bộ, có nhiều kẽ hở, không thống nhất giữa luật với văn bản dưới luật sẽ khiến cho hoạt động ngân hàng gặp phải những khó khăn, cản trở, thậm chí làm cho hoạt động kinh doanh dễ gặp rủi ro. Trong xu thế hội nhập như hiện nay, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng cần phải

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/05/2023