trình mục tiêu và dự án, kế hoạch du lịch hàng năm, xây dựng các kế hoạch của Trung ương và địa phuơng,…
Chiến lược PTDLBV: có giá trị định hướng dài hạn cho những vấn đề quan trọng nhất nhằm PTDLBV. Khi xây dựng chiến lược, đòi hỏi phải phân tích chính xác tình hình thị trường khách DL, mục tiêu phát triển hoạt động DL, từ đó lựa chọn phương án tối ưu nhằm phát triển hoạt động DL, xác định được một chiến lược phát triển đúng, có căn cứ khoa học và phù hợp với thực tiễn của đất nước.
Kế hoạch PTDLBV: kế hoạch PTDLBV thường gắn với kế hoạch hoạt động DL nói chung của từng vùng, miền, quốc gia. Kế hoạch được chia ra thành kế hoạch dài hạn (trên 5 năm); kế hoạch trung hạn (từ 3 đến 5 năm); kế hoạch hàng năm (cụ thể hóa của kế hoạch trung hạn). Kế hoạch là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước nhằm đưa ra các biện pháp cụ thể để đạt được mục tiêu trong từng thời kỳ nhất định do Nhà nước đặt ra. Vì vậy, kế hoạch là một công cụ định hướng, tổ chức và điều khiển PTDLBV. Dự án cũng là những công cụ thuộc nhóm kế hoạch hóa được sử dụng trong quản lý đối với PTDLBV.
Quy hoạch phát triển các khu, điểm du lịch: quy hoạch là sự cụ thể hóa một phần chiến lược PTDL về không gian, thời gian và tổ chức, bao gồm một tập hợp các mục tiêu, bố trí, sắp xếp các nguồn lực tương ứng nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược PTDLBV.
- Công cụ chính sách
Chính sách là một trong những các công cụ chủ yếu mà Nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế quốc dân. Dưới dạng chung nhất: “Mỗi chính sách là một tập hợp các giải pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá trinh đạt tới các mục tiêu chung của sự phát triển KTXH” (Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu, 2008). Một chính sách bất kỳ thường gồm hai bộ phận: các mục tiêu cần đạt và các giải pháp cần áp dụng để thực hiện các mục tiêu.
Các chính sách kinh tế chủ yếu mà nhà nước thường sử dụng để quản lý đối với PTDLBV là: chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng, chính sách kích cầu du lịch, chính sách đầu tư, chính sách đất đai… Các chính sách này có ý nghĩa, vai trò tác động trực tiếp đối với quản lý PTDLBV.
- Công cụ pháp luật
“Pháp luật thường được hiểu là hệ thống các quy tắc xử xự có tính chất bắt buộc chung (quy phạm pháp luật) thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và cộng đồng xã hội, do Nhà nước đặt ra, thực thi và bảo vệ, nhằm bảo toàn và phát triển xã hội theo các định trưng đã định” (Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu, 2008).
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Lý Luận Và Kinh Nghiệm Thực Tiễn Về Quản Lý Nhà Nước Của Địa Phương Cấp Tỉnh Đối Với Phát
- Những Tiêu Chí Đánh Giá Phát Triển Du Lịch Bền Vững
- Đặc Điểm, Mục Tiêu Và Chủ Thể Quản Lý Nhà Nước Của Địa Phương Cấp Tỉnh Đối Với Phát Triển Du Lịch Bền Vững
- Quản Lý Phát Triển Nguồn Nhân Lực (Quy Hoạch, Đào Tạo), Ứng Dụng Khoa Học Và Công Nghệ Trong Phát Triển Du Lịch
- Kinh Nghiệm Quản Lý Nhà Nước Của Một Số Địa Phương Cấp Tỉnh Đối Với Phát Triển Du Lịch Bền Vững Và Bài Học Rút Ra Cho Tỉnh Thanh Hóa
- Bài Học Kinh Nghiệm Rút Ra Cho Quản Lý Nhà Nước Của Tỉnh Thanh Hóa Đối Với Phát Triển Du Lịch Bền Vững
Xem toàn bộ 244 trang tài liệu này.
Hệ thống pháp luật về PTDLBV có vai trò quản lý và định hướng toàn bộ HĐDL theo các mục tiêu đã đề ra, cụ thể: (1) Tạo cơ sở pháp lý đảm bảo sự vận hành tự do, an toàn cho PTDLBV; (2) Là công cụ pháp lý để bảo vệ các HĐDL theo đúng đường lối, chính sách và quy định, đồng thời cũng là công cụ để xử lý những hành vi vi phạm trong HĐDL, đảm bảo sự tồn tại và ràng buộc hợp pháp giữa các chủ thể tham gia HĐDL; (3) Đảm bảo cho hoạt động hợp tác xúc tiến du lịch, tăng cường khả năng cạnh tranh và hội nhập về PTDLBV.
2.2.1.3. Phương pháp quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch của địa phương cấp tỉnh.
Có thể hiểu, phương pháp QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với với PTDLBV là tổng thể những cách thức tác động có chủ đích và có thể của Nhà nước lên sự PTDL nhằm hướng đến sự bền vững. Trong thực tế tổ chức và quản lý đối với nền kinh tế, Nhà nước có thể và cần phải thực hiện các biện pháp chủ yếu, đó là: phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục.
- Phương pháp hành chính
Phương pháp hành chính là cách thức tác động trực tiếp của Nhà nước thông qua các quyết định dứt khoát và có tính bắt buộc trong khuôn khổ luật pháp lên các chủ thể kinh tế, nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước trong những tình huống nhất định. Phương pháp hành chính đối với PTDLBV là cách thức tác động trực tiếp của Nhà nước thông qua các quyết định có tính bắt buộc đối với sự PTDL ở điểm du lịch nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước để PTDLBV.
Đặc điểm của phương pháp này là tính bắt buộc và tính quyền lực. Thực chất của phương pháp này là sử dụng quyền lực Nhà nước để tạo sự phục tùng của đối tượng quản lý (các nhà hàng, khách sạn, công ty lữ hành,...) trong hoạt động quản lý của Nhà nước đối với PTDLBV. Thực chất đây là phương pháp sử dụng quyền lực của Nhà nước để tạo ra sự phục tùng của các cá nhân và tổ chức trong PTDLBV. Phương pháp hành chính có vai trò quan trọng trong việc xác lập kỷ cương và kết nối các phương pháp khác để giải quyết nhanh chóng các vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm dễ sa vào tình trạng lạm dụng quyền hành, chủ quan, duy ý chí, sinh ra tệ nạn quan liêu, tham nhũng, cửa quyền. Vì vậy, khi sử dụng phương pháp hành chính đòi hỏi quyết định hành chính phải có căn cứ khoa học và luận chứng đầy đủ về kinh tế, phải gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm của cấp ra quyết định.
- Phương pháp kinh tế
“Phương pháp kinh tế là cách thức tác động gián tiếp của Nhà nước, dựa trên những lợi ích kinh tế có tính huớng dẫn lên đối tượng quản lý, nhằm làm cho đối
tượng quản lý tự giác, chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao” (Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu, 2008). Như vậy, có thể hiểu: Phương pháp kinh tế đối với sự PTDLBV là phương pháp tác động lên đối tượng quản lí không bằng cưỡng chế hành chính mà bằng lợi ích, tức là Nhà nước chỉ đề ra mục tiêu, nhiệm vụ phải đạt, đặt ra những điều kiện khuyến khích sự PTDLBV, những phương tiện vật chất có thể sử dụng để họ tự tổ chức việc thực hiện nhiệm vụ.
Phương pháp kinh tế được Nhà nước sử dụng là các chính sách về thuế, lãi suất, giải pháp hỗ trợ phát triển, quỹ dự trữ quốc gia, chính sách đối với DN, chính sách xã hội hóa, ngân sách Nhà nước. Có thể thấy, đây là phương pháp quản lý tốt nhất để thực hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả kinh tế. Phương pháp này mở rộng quyền hoạt động cho các chủ thể kinh tế, đồng thời cũng tăng trách nhiệm kinh tế của họ. Vì chứa nhiều yếu tố kích thích kinh tế cho nên phương pháp này tác động nhanh nhạy, linh hoạt, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của đối tượng quản lý.
- Phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của con người nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình lao động của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Như vậy, có thể hiểu: Phương pháp giáo dục đối với sự PTDLBV là cách thức tác động của Nhà nước lên nhận thức của các đối tượng quản lý nhằm nâng cao nhận thức của họ trong việc thực hiện được những nhiệm vụ được giao.
Phương pháp giáo dục mang tính thuyết phục cao, không dùng sự cưỡng chế, không dùng lợi ích vật chất mà là tạo ra sự nhận thức về tính tất yếu khách quan để đối tượng quản lí tự giác thi hành nhiệm vụ. Phương pháp giáo dục được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục tuyên truyền bằng các phương tiện truyền thông đại chúng; sử dụng các đoàn thể và các hoạt động có tính xã hội; sử dụng các hội nghị, tổng kết thi đua khen thưởng; rèn luyện giáo dục đội ngũ....
2.2.2. Nội dung quản lý nhà nước của địa phương cấp tỉnh đối với phát triển du lịch bền vững
Trong Luật Du lịch (năm 2017) đã có sự thay đổi, nội dung QLNN về du lịch được phân cấp rõ ràng: Nội dung QLNN về du lịch được quy định và phân theo cấp trung ương và cấp địa phương, Theo mục 4 điều 75 của Luật Du lịch (2017), quy định trách nhiệm QLNN về du lịch của UBND cấp tỉnh: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện QLNN về du lịch tại địa phương cụ thể hóa chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách PTDL phù hợp với thực tế tại địa phương”.
UBND các cấp có nhiệm vụ, quyền hạn sau: (1) Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư để khai thác
tiềm năng, thế mạnh về du lịch của địa phương; hỗ trợ PTDL cộng đồng; (2) Quản lý TNDL, khu du lịch, điểm du lịch, hoạt động KDDL và hướng dẫn du lịch trên địa bàn; (3) Bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, môi trường, an toàn thực phẩm tại khu du lịch, điểm du lịch, nơi tập trung nhiều khách du lịch; (4) Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân để bảo đảm môi trường du lịch thân thiện, lành mạnh và văn minh; (5) Tổ chức bố trí nơi dừng, đỗ cho các phương tiện giao thông đã được cấp biển hiệu phương tiện vận tải khách du lịch để tiếp cận điểm tham quan du lịch, cơ sở lưu trú du lịch; tổ chức rà soát, lắp đặt biển báo, biển chỉ dẫn vào khu du lịch, điểm du lịch; (6) Tổ chức tiếp nhận và giải quyết kiến nghị của khách du lịch.
Luật Du lịch năm 2017 thể hiện rõ trách nhiệm thực hiện hoạt động QLNN về du lịch của từng cấp, tuy nhiên nội dung QLNN về du lịch có nội hàm vẫn tương tự so với Luật Du lịch năm 2005. Luận án xem xét nội dung QLNN về du lịch theo Luật Du lịch năm 2005 để làm nguồn tham khảo xây dựng khung lý thuyết,...Do đó, QLNN cấp tỉnh đối với PTDLBV bao gồm các nội dung chủ yếu như sau:
2.2.2.1. Tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển du lịch của quốc gia
PTDL của một quốc gia, trong đó bao gồm cả PTDL của địa phương, trước hết phải phù hợp với đường lối phát triển KT-XH của quốc gia đó và được cụ thể hóa bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách PTDL của quốc gia. Chính vì vậy, trong quá trình PTDL, các địa phương cũng phải tổ chức thực hiện và tuân thủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách PTDL cấp trung ương. Trong đó, chiến lược PTDL do Thủ tướng Chính phủ ban hành là tập hợp các quyết định về các mục tiêu PTDL dài hạn và các biện pháp, các cách thức, con đường đạt đến các mục tiêu đó.
Quy hoạch PTDL thực hiện chiến lược PTDL, làm gia tăng những lợi ích từ du lịch và giảm thiểu những tác động tiêu cực mà PTDL có thể mang lại cho cộng đồng. Trước đây, quy hoạch PTDL của một địa phương bao gồm quy hoạch PTDL tổng thể của địa phương và quy hoạch PTDL cụ thể cho từng khu du lịch. Hiện nay, theo Luật Quy hoạch 2017, có hiệu lực từ ngày 01/01/2019, chỉ có quy hoạch PTDL cấp quốc gia (quy hoạch ngành) mà không còn quy hoạch PTDL của từng địa phương, nội dung này được lồng ghép trong quy hoạch tỉnh. Do vậy, ở thời điểm này, trong QLNN của CQĐP cấp tỉnh đối với PTDL của tỉnh không còn nội dung xây dựng quy hoạch du lịch mà chỉ là tổ chức thực hiện các nội dung về PTDL theo quy hoạch tỉnh và thực hiện tiếp các quy hoạch du lịch đã được xây dựng và ban hành từ trước đó. Trên cơ sở chiến lược PTDL, các nội dung có liên quan đến
PTDL đề cập trong quy hoạch tỉnh, CQĐP cấp tỉnh tiến hành lập kế hoạch PTDL để triển khai các nội dung trên một cách cụ thể, rõ ràng.
2.2.2.2. Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện văn bản pháp luật về du lịch bền vững địa phương
Hệ thống các VBQPPL được xây dựng từ các quy định chính sách, pháp luật của Nhà nước, buộc mọi người phải tuân thủ theo. Để các quy định, chính sách đó đi vào cuộc sống thì Nhà nước nói chung và các sở ban ngành liên quan phải xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chúng một cách nghiêm chỉnh. Như vậy, muốn quản lý sự phát triển ngành du lịch tại địa phương, các cơ quan nhà nước ở địa phương cần chỉ đạo thực hiện các luật lệ, chính sách của Trung ương ban hành có hiệu quả ở địa phương mình, ban hành các VBQPPL tại địa phương xuất phát từ yêu cầu quản lý phát triển ngành ở địa phương nhưng không trái với luật pháp của Nhà nước.
Việc ban hành các VBQPPL phải đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật và quy định của cơ quan nhà nước cấp trên, vừa phải thông thoáng trên cơ sở sử dụng nguồn lực của địa phương để khuyến khích phát triển. Phải đảm bảo tính ổn định, bình đẳng và nghiêm minh trong quá trình thực thi VBQPPL. Ngoài ra, chính quyền cấp tỉnh cần phải đảm bảo bình ổn giá cả tiêu dùng và thị trường du lịch, có chính sách điều tiết thu nhập hợp lý và hướng các DNDL tham gia thực hiện các chính sách xã hội ở địa phương. Để thực hiện điều này, chính quyền cấp tỉnh phải sử dụng linh hoạt các công cụ quản lý để hạn chế tình trạng nâng giá, độc quyền trong hoạt động KDDL ở địa phương. Du lịch là khâu đột phá kích thích sự phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực và cũng là lĩnh vực tạo ra lợi nhuận cao, vì vậy phải có chính sách hợp lý để hướng các doanh nghiệp sử dụng nguồn lợi nhuận thu được tiếp tục đầu tư cho sự phát triển lâu dài và bền vững, khai thác hợp lý tiềm năng du lịch sẵn có của địa phương, nhất là ở các xã vùng sâu, vùng xa có tiềm năng PTDL để góp phần cải thiện cuộc sống vật chất và tinh thần cho người dân sở tại...(Trần Tiến Dũng, 2007).
2.2.2.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch bền vững, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch bền vững
Du lịch là hoạt động mang tính liên ngành, do đó QLNN của địa phương cấp tỉnh đối với PTDLBV phải tạo được những cân đối chung, điều tiết được thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi HĐDL PTBV. Và để thực hiện tốt điều này, bộ máy QLNN phải được tổ chức thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả từ Trung ương đến địa phương, đồng thời các cơ
quan trong bộ máy đó phải luôn được phối hợp chặt chẽ với nhau để đảm bảo du lịch luôn có sự thống nhất trong tổ chức và hoạt động.
Hiện nay, theo quy định của Luật Du lịch Việt Nam (2017) thì HĐDL chịu sự quản lý thống nhất của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Chính phủ thống nhất QLNN đối với PTDLBV. Chính phủ trao cho Bộ VHTT&DL thực hiện QLNN đối với PTDL và chịu trách nhiệm trước Chính phủ. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và theo sự phân công của Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan QLNN đối với PTDLBV ở Trung ương trong việc thực hiện QLNN đối với PTDLBV. Tổng cục Du lịch là tổ chức trực thuộc Bộ VHTT&DL, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ VHTT&DL QLNN và tổ chức thực thi pháp luật về PTDLBV trong phạm vi cả nước, quản lý các dịch vụ công về du lịch theo quy định của pháp luật.
Về QLNN của một địa phương cấp tỉnh đối với PTDL thì chính quyền địa phương cấp tỉnh là trung tâm điều phối sự phối hợp giữa Sở VH,TT&DL (Sở Du lịch) với các sở, ban, ngành có liên quan khác trong PTDL; gắn kết giữa các DNDL trên địa bàn với thị trường liên vùng, khu vực và trên thế giới, nhất là với các trung tâm kinh tế lớn. Một mặt, CQĐP cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ tham gia hợp tác quốc tế và du lịch theo quy định của pháp luật, góp phần đẩy mạnh liên kết và hội nhập dịch vụ du lịch với các nước trong khu vực và quốc tế. Mặt khác, CQĐP cần chủ động làm đầu mối thông qua việc tổ chức và thiết lập các điểm thông tin, lựa chọn và công bố các địa chỉ giao dịch của các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp có uy tín đang hoạt động tại các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực và trên thế giới nhằm giúp các doanh nghiệp có những thông tin cần thiết để có thể lựa chọn đối tác liên doanh, liên kết.
2.2.2.4. Quản lý xúc tiến phát triển thị trường du lịch
Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển thị trường du lịch. Hoạt động xúc tiến du lịch giúp cho người dân hiểu được về quyền lợi và trách nhiệm của mình khi tham gia vào các HĐDL, thấy rõ được tầm quan trọng trong việc bảo vệ môi trường du lịch. Từ đó, nâng cao vai trò, tinh thần trách nhiệm của mình đối với cộng đồng, đối với việc phát triển và bảo vệ môi trường du lịch và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Xúc tiến phát triển thị trường du lịch của địa phương có thể thông qua các hội thảo, hội chợ du lịch; giao lưu văn hóa; các video, phim; pano, áp phích;…Địa phương cũng cần đầu tư kinh phí hợp lý cho các chiến dịch quảng bá du lịch.
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, xúc tiến phát triển thị trường du lịch là một điều kiện tất yếu để PTBV ngành du lịch của địa phương. Việc tạo sự
liên kết chặt chẽ hơn giữa các DNDL và cơ quan QLNN cũng sẽ tạo nên một môi trường, cơ chế kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động xúc tiến phát triển thị trường du lịch ở địa phương. Một mặt, chính quyền cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác xúc tiến thị trường du lịch theo quy định của pháp luật. Mặt khác, làm “đầu nối” thông qua việc tổ chức và thiết lập các kênh thông tin để các DNDL có cơ hội giới thiệu, giao dịch với các tổ chức và doanh nghiệp có uy tín đang hoạt động tại các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực và trên thế giới nhằm giúp các doanh nghiệp có những cơ hội lựa chọn đối tác hợp tác kinh doanh.
Trong quảng bá, xúc tiến du lịch của địa phương, cần xác định rõ trách nhiệm của các thành phần tham gia. Cụ thể, Theo Luật Du lịch (2017), UBND tỉnh trong phạm vi quyền hạn của mình, có trách nhiệm: (1) Xây dựng kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch của địa phương; (2) Tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến du lịch tại địa phương; (3) Phối hợp với Bộ VH,TT&DL và địa phương khác trong hoạt động xúc tiến du lịch ở cấp quốc gia và liên vùng, liên địa phương. Các DNDL và tổ chức, cá nhân liên quan tại địa phương có trách nhiệm chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch phù hợp với chiến lược, kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch của địa phương, có trách nhiệm đóng góp chi phí cho hoạt động xúc tiến.
2.2.2.5. Quản lý công nhận khu, điểm du lịch và cấp phép hoạt động du lịch (gồm điểm du lịch, khu du lịch, các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch)
Theo Luật Du lịch (2017), để được công nhận là “khu du lịch” và “điểm du lịch”, các điểm đến phải đáp ứng các điều kiện cơ bản như có TNDL với ưu thế về cảnh quan thiên nhiên hoặc giá trị văn hóa và có ranh giới xác định; phải có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ đáp ứng nhu cầu lưu trú, ăn uống và các nhu cầu khác của khách du lịch. Đồng thời, phải có sự kết nối với hệ thống hạ tầng giao thông, viễn thông quốc gia, cũng như đáp ứng điều kiện về an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật... Điều đáng nói hơn, việc được công nhận là các “khu du lịch”, “điểm du lịch” sẽ tạo điều kiện để khai thác hiệu quả TNDL, thông qua việc thu hút các nguồn lực đầu tư, bao gồm cả nguồn lực từ ngân sách Nhà nước và các nguồn lực xã hội khác. Qua đó, hoàn thiện hạ tầng và cơ sở vật chất du lịch; từng bước nâng cao chất lượng quản lý, khai thác và đẩy mạnh hoạt động quảng bá, giới thiệu điểm đến du lịch này một cách rộng rãi, bài bản, hiệu quả hơn.
Luật Du lịch (2017) cũng quy định rõ về việc cấp phép hoạt động đối với các DNDL, bao gồm các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống và các dịch vụ bổ sung khác phục vụ khách du lịch. Theo đó, Sở
VH,TT&DL (Sở Du lịch) tỉnh có trách nhiệm thẩm định hồ sơ trình cấp, sửa đổi, bổ sung, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép thành lập văn phòng đại diện của DNDL nước ngoài đặt trên địa bàn tỉnh; hồ sơ đề nghị cấp có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh; thẩm định trình cấp, cấp lại, đổi, thu hồi thẻ hướng dẫn viên du lịch; cấp, thu hồi giấy chứng nhận thuyết minh viên theo quy định; xếp hạng cho các cơ sở lưu trú (từ 3 sao trở xuống) gồm khách sạn, làng du lịch; biệt thự, căn hộ du lịch; bãi cắm trại; nhà nghỉ du lịch; khu du lịch; điểm du lịch; tuyến du lịch; cơ sở lưu trú du lịch khác; cấp biển hiệu đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch cho cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trong khu du lịch, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật.
HĐDL là hoạt động kinh doanh nên cũng như bất kỳ hoạt động kinh doanh nào khác cũng phải được Nhà nước cấp giấy phép, giấy chứng nhận về hoạt động thì mới được phép hoạt động. Các cá nhân, tổ chức khi tham gia KDDL phải đảm bảo đủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của ngành. Ở từng lĩnh vực sẽ có các điều kiện, tiêu chuẩn cụ thể tương ứng với lĩnh vực đó. Hơn nữa, các điều kiện, tiêu chuẩn này được Nhà nước ban hành và thống nhất trên phạm vi của cả nước và là thước đo để xem xét, cấp giấy phép, giấy chứng nhận về HĐDL. Ngoài ra còn có các ngành, nghề KDDL khác như: kinh doanh lữ hành; kinh doanh lưu trú...và các dịch vụ KDDL khác. Các cá nhân, tổ chức kinh doanh HĐDL phải có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật, được Nhà nước bảo hộ hoạt động KDDL hợp pháp.
2.2.2.6. Quản lý bảo tồn, khai thác tài nguyên du lịch và bảo vệ môi trường
Khai thác và sử dụng hợp lý nguồn TNDL tự nhiên đặt ra yêu cầu điều tra, phân tích, đánh giá được đầy đủ, đúng mức tiềm năng, hiện trạng của tài nguyên. Trên cơ sở đó, xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng tài nguyên DL tự nhiên để hình thành các vùng, khu, điểm du lịch đồng thời xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch phù hợp với điều kiện tài nguyên, nhu cầu thị trường. Xác định các giải pháp, kế hoạch sử dụng với phân kỳ hợp lý, tiết kiệm, cân đối giữa việc sử dụng hiện tại và gìn giữ cho tương lai. Bảo vệ TNDL, môi trường trong PTDL theo hướng bền vững bao gồm cả việc giữ gìn, bảo vệ TNDL, môi trường sinh thái để tạo tiền đề, điều kiện cho du lịch có thể PTBV, cần xác định đây vừa là nội dung, vừa là mục tiêu của du lịch theo hướng PTBV.
Theo Luật Du lịch (2017), UBND cấp tỉnh và các cơ quan nhà nước có liên quan chịu trách nhiệm phối hợp với Bộ VH,TT&DL (chủ trì) điều tra, đánh giá, phân loại TNDL để làm căn cứ lập quy hoạch về du lịch; quản lý, bảo vệ, tôn tạo, khai thác hợp lý và phát huy giá trị TNDL. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng